Bài: Sóng – Xuân Quỳnh – Hoc247.vn

Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Bài: Sóng – Xuân Quỳnh – Hoc247.vn. Bài viết soan bai song cua xuan quynh tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.

I. Tìm hiểu chung

Bạn Đang Xem: Bài: Sóng – Xuân Quỳnh – Hoc247.vn

1. Tác giả Xuân Quỳnh:

– Xuân Quỳnh (1942-1988), là một nhà thơ nữ Việt Nam. Bà được xem là nữ thi sĩ nổi tiếng với nhiều bài thơ tình được nhiều người biết đến như Thuyền và Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu, Tiếng gà trưa…

– Bà tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942tại làng La Khê, xã Văn Khê, tỉnh Hà Tây (nay là quận Hà Đông, Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình công chức, mẹ mất sớm, bố thường xuyên công tác xa gia đình, bà được bà nội nuôi dạy từ nhỏ đến khi trưởng thành.

– Tháng hai năm 1955, Xuân Quỳnh được tuyển &o Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và được đào tạo thành diễn viên múa.

– Đến với thơ Xuân Quỳnh, ta sẽ lắng nghe được tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân tình, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Trong những bài thơ của mình, chị luôn bộc lộ niềm khát khao tình ái, trân trọng, nâng niu hạnh phúc. ái tình trong thơ chị vừa nồng nhiệt, táo bạo, vừa hồn nhiên, thiết tha, say đắm.

– Tác phẩm tiêu biểu:

+ Tơ tằm – chồi biếc (thơ, in chung, Nhà xuất bản Vhọc hành, 1963)

+ Hoa dọc chiến hào (thơ, in chung, 1968)

+ Gió Lào, bờ bờ cát trắng (thơ, 1974)

+ Lời ru trên mặt đất (thơ, 1978)

+ Sân ga chiều em đi (thơ, 1984)

+ Tự hát (thơ, 1984)

– Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là thành phố), tỉnh Hải Dương cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.

– Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

2. Bài thơ “Sóng”:

– “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.

– lan tỏa, xuyên suốt bài thơ là hình tượng “sóng”. “Sóng” là Bức Ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của cái tôi trữ tình. Bài thơ được kết cấu trên cơ sở nhận thức sự tương đồng, hoà hợp giữa hai hình tượng trữ tình: “sóng” và “em”. Hai hình tượng này tuy hai mà một, có lúc phân chia, có lúc hoà quyện &o nhau không thể tách rời. Điều đó đã tượng trưng cho sự phong phú, phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn nhưng thống nhất trong tâm hồn người con gái đang yêu.

Xem Thêm : Nên tập plank bao lăm lần 1 ngày? Tập bao lâu thì có cơ bụng?

– Thể thơ năm chữ có tác dụng tạo ra những nhịp điệu của sóng. Cả bài thơ là một đại dương, mỗi khổ thơ là một con sóng lớn, mỗi câu thơ là một con sóng nhỏ. Tất cả đã tạo nên một âm hưởng bao la, dào dạt của những con sóng lòng nhiều cung bậc.

Xem Thêm  Cung Bạch Dương là tháng mấy? [Giải đáp chi tiết]

II. Đọc hiểu văn bản

1. Khổ 1, 2:

yêu.- bắt đầu bài thơ là trạng thái tâm lý đặc biệt của một tâm hồn khao khát yêu đương đang tìm đến một tình ái mênh mang hơn. Xuân Quỳnh đã diễn tả thật cụ thể trạng thái khác thường, vừa phong phú vừa phức tạp trong một trái tim đang cồn cào, khao khát ái tình.

– Hai trạng thái tâm lí đối nghịch lại được diễn tả trong một ngữ cảnh cụ thể. Nhưng cặp từ gợi tả cảm xúc “Dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ” kết hợp với nghệ thuật đối đã làm hiện lên vẻ đẹp của những con sóng biển ngàn đời đối cực.

– Ba Hình ảnh “sông”, “sóng”, “bể” như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mông rãi thăm thẳm. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình.

– Nỗi khát vọng ái tình xôn xao, rạo rực trong trái tim, là khát vọng muôn đời của nhân loại, nhất là của tuổi trẻ. Cũng như sóng, nó mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian.

– Thán từ “ôi” đã mô tả rõ ràng hơn nét nồng nàn trong giọng thơ Xuân Quỳnh. Đây là tiếng lòng thốt lên từ nỗi thổn thức của trái tim yêu.

– Nghệ thuật đối lập “ngày xưa” – “ngày sau” càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng. Sóng là thế, muôn đời vẫn thế, vẫn dữ dội, ồn ào, vẫn dịu êm, lặng lẽ như ái tình tuổi trẻ có bao giờ đứng yên. Bởi tình ái tuổi trẻ luôn gắn liền với khao khát và mơ ước, nó luôn làm ta bồi hồi và nhung nhớ.

– Từ láy “bồi hồi” là trạng thái tâm hồn bất định, nó đã khắc họa thật rõ ràng những nét cảm xúc, ở đó có cái nôn nao, xao xuyến; có nỗi khắc khoải,da diết của tình ái muôn đời vĩnh hằng trong “ngực trẻ”.

2. Khổ 3, 4:

– Từ “Không hiểu nổi mình” nhà thơ liên tiếp đặt ra những băn khoăn, thắc bận bịu. Thắc bận rộn về biển cả, chính là thắc bận rộn về tình ái. Đó là một hiện t¬ượng tâm lý bình thường trong tình ái – yêu có nghĩa là hiểu rất rõ về người mình yêu và đồng thời người yêu vẫn là một ẩn số đối với mình. Cũng như vậy, người đang yêu rất hiểu về ái tình nhưng đồng thời vẫn luôn luôn tự hỏi không biết thế nào là tình ái. tình ái là sóng, là gió. Và qua sóng, gió ấy, nhà thơ đã nói lên thật dễ thương cái nhu cầu tự nhận thức, tự phân tích, lí giải, nhưng lại không thể giải nghĩa nổi của tình ái.

– Với một thắc mắc rất con gái, nhẹ nhàng, bối rối lẫn chút đắm say, ngọt ngào, Xuân Quỳnh đã thì thầm với người đọc bao nỗi băn khoăn. Trăn trở với khổ thơ ta nghe thấy nỗi lòng nhà thơ trăn trở. Nhịp thơ thay đổi biến hóa linh động đã nhấn mạnh thêm nỗi lo lắng, thảng thốt trong trái tim Xuân Quỳnh. Người phụ nữ băn khoăn về khởi nguồn của ái tình và bày tỏ 1 cách hồn nhiên, thực bụng: “Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”. Đây là 1 cách cắt nghĩa về ái tình rất Xuân Quỳnh, 1 cách giải nghĩa rất nữ tính, rất trực cảm.

– Lí giải được ngọn nguồn của sóng thì dễ bởi “Sóng bắt đầu từ gió” nhưng để hiểu “Gió bắt đầu từ đâu?” thì thi nhân lại ấp úng “Em cũng không biết nữa”. Cũng như tình ái, nó đến rất bất ngờ và tự nhiên bởi “tình ái đến trong đời không báo động”. Câu thơ “Em cũng không biết nữa” như một cái lắc đầu nhè nhẹ, lừng chừng. Đến câu hỏi tu từ “Khi nào ta yêu nhau” thì đúng là nữ sĩ đang bâng khuâng và băn khoăn thật sự. Câu hỏi này muôn đời không ai lí giải nổi.

Xem Thêm  Bài 2 trang 15 SGK Ngữ văn 10 tập 1 | Soạn bài Hoạt động giao tiếp

3. Khổ 5:

– Và với Xuân Quỳnh cũng như tất cả với mỗi người đang yêu, ái tình luôn đi liền với nỗi nhớ,với sự chờ mong da diết, khắc khoải.

– Biện pháp nghệ thuật tu từ nhân hoá kết hợp với điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp đã diễn tả nỗi nhớ mãnh liệt của một trái tim đang yêu, nỗi nhớ thường trực cả khi thức, khi ngủ, rải rộng cả không gian và thời gian.

– Thán từ “ôi” được sử dụng như nỗi nhớ được gọi thành tên. Nỗi nhớ nôn nao, cồn cào, da diết.

– Xuân Quỳnh đã vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người con gái khi yêu. Sóng muôn đời vẫn thế, có bao giờ thôi vỗ, có khi nào chẳng cồn cào, có khi nào thôi ngừng hành trình đến với bờ dù muôn vời cách trở.

Xem Thêm : Animation là gì, bạn sẽ ngạc nhiên về những điều này…

– Thông qua hình tượng sóng để bộc lộ nỗi nhớ dường như chưa thỏa, nhà thơ đã bộc lộ một cách trực tiếp.

– Xuân Quỳnh dùng chữ “lòng” rất tinh tế, bởi đó là nơi sâu kín nhất của tâm hồn con người, nơi kín đáo thẳm sâu của tình ái và nỗi nhớ. Khi Xuân Quỳnh nói “lòng em nhớ” nghĩa là chị đã phơi bày tất cả tấm chân đức của mình để dốc hết yêu thương mà gửi về người mình yêu. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ.

– Khổ thơ bỗng dưng dài ra cho nỗi nhớ tăng dần, cảm xúc như được nâng lên đến tận cùng dạt dào, nóng bỏng.

4. Khổ 6, 7:

– “Dẫu xuôi”, “Dẫu ngược”, “phương bắc”, “phương nam” là những từ cụ thể khẳng định khoảng cách đặt ra xa bao lăm thì lòng người lại thủy chung bấy nhiêu. Khổ thơ như một lời khẳng định rắn rỏi, mạnh mẽ, dứt khoát, rõ ràng.

– Phải chăng, từ nỗi nhớ trong tình ái, nhà thơ muốn làm nổi bật tình cảm thủy chung duy nhất của ng¬ười con gái. Dù đi đâu, dù xuôi ng¬ược bốn phư¬ơng, thì em cũng chỉ h¬ướng về một phư¬ơng của anh, có anh, cho anh.

– Ba từ “Ở ngoài kia” đã gợi tả ánh mắt hướng về khơi xa nơi trăm ngàn con sóng ngày đêm không không biết mỏi đang vượt qua giới hạn không gian thăm thẳm muôn vời cách trở để hướng &o bờ ôm ấp nỗi yêu thương. Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hòa nhịp &o trong tình ái với anh. Người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết yêu đời vẫn còn ấp ủ biết bao hi vọng, vẫn phơi phới một niềm tin &o hạnh phúc tương lai, vẫn tìm &o cái đích cuối cùng của một tình yêu lớn như con sông nhất định sẽ “tới bờ”, “dù muôn vời cách trở”. Hàng loạt các thử thách được đưa ra gắn liền với thiên nhiên vĩnh hằng để khẳng định sức mạnh của tình yêu và lòng chung thủy.

5. Khổ 8, 9:

– Ở “Sóng”, tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ như tìm về nguồn cội yêu thương, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi. Sóng biển mây trời vẫn muôn đời trường tồn như một quy luật định hình.

– Những cụm từ “tuy dài thế”, “vẫn đi qua”, “dẫu mênh mông” như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo. Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu thật tình của mình sẽ vượt qua tất cả như áng mây kia, như năm tháng kia.

Xem Thêm  Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là khai hóa văn minh

– Một loạt Bức Ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản, đối lập để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ &o sức mạnh của tình yêu .

– Yêu thương mãnh liệt nhưng cao thượng, vị tha, người hùng trữ tình khao khát hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình &o biển lớn tình yêu – tình yêu mênh mang, mênh mông rãi – để sống hết mình trong tình yêu, để tình yêu riêng hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.

– Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con sóng nhỏ. Trong hàm ý của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng.

– Nhà thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình &o đại dương bát ngát rãi, hòa mình &o biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương…

– Khổ thơ cuối đã khẳng định một ước muốn khôn cùng. Không có tình yêu cuộc sống tha thiết, không có sự đam mê đến tột cùng, không có sự thủy chung làm sao Xuân Quỳnh có được những câu thơ như vậy. Trong ước mong dẫu còn chút băn khoăn của “làm sao được tan ra” nhưng trên tất cả là khát vọng vĩnh viễn hóa tình yêu. Lời thơ, ý thơ, nhịp thơ có phần nhanh hơn, cao hơn, gấp gáp hơn. Bài thơ kết thúc mà lời thơ còn vang vọng mãi như con sóng ào ạt hòa &o biển lớn tình yêu cùng với những khát khao cháy bỏng.

III. Tổng kết

– Cả bài thơ, nếu kể cả nhan đề, tác giả mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ bờ như tình yêu xôn xao trong tâm hồn.

– Hình tượng sóng cho ta nhiều ấn tượng. Âm điệu, nhịp điệu của sóng, cũng là giọng điệu tâm tình, nhạc điệu của bài thơ.

– Thể thơ ngũ ngôn liền mạch, phong phú về vần điệu, trong sáng trong biểu cảm, lúc bồi hồi tha thiết, lúc day dứt ngay ngáy, lúc mạnh mẽ ồn ào, đã gợi lên trong lòng người đọc sự liên tưởng sóng trên đại dương cũng là sóng vỗ trong lòng người con gái đang yêu. Cái hay của bài thơ chính là ở âm điệu nồng nàn ấy.

 

Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp

Recommended For You

About the Author: badmin

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *