Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Phong cách lãnh đạo của người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức. Bài viết bai viet ve phong cach lanh dao tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
- 7 Hướng dẫn vẽ tranh con trâu cực kỳ đơn giản mới nhất
- Những động vật trinh sản | Con người và Thiên nhiên
- Sinh 11 Bài 15: Tiêu Hóa Ở Động Vật Lý Thuyết Và Bài Tập – VUIHOC
- Rất Hay: Người tuổi Sửu và Tuất có hợp nhau trong làm ăn, tình
- Lặng lẽ Sa Pa – tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý – Ngữ văn 9
Bạn Đang Xem: Phong cách lãnh đạo của người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều có nghĩa vụ tổ chức, lãnh đạo quần chúng, dẫn dắt quần chúng nhân dân đi theo Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi Đảng cầm quyền, đảng viên được tín nhiệm và sắp xếp tham gia công tác lãnh đạo, quản lý ở các đơn vị, đơn vị. Phong cách của người lãnh đạo, người đứng đầu có vai trò quan trọng trong việc thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, trong kết quả triển khai thực hiện nhiệm vụ.
Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh là tổng hòa các phương pháp, biện pháp, cách thức thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng của Người. Phong cách đó được quy định bởi vị trí, vai trò, uy tín, vốn sống, điều kiện chính trị; phản ánh các phẩm chất cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, tình cảm, tri thức, ý chí, tính cách… và gắn liền với thực tiễn hoạt động cách mạng của bác bỏ. Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh vừa thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa mang đậm bản sắc văn hóa, tâm hồn, cốt cách con người Việt Nam, tạo nên nhiều nét độc đáo, đặc sắc, phong phú; trong đó, tập trung chủ yếu ở những nội dung sau:
1. Phong cách dân chủ, nhưng quyết đân oán thù thù thù thù
Trong phong cách dân chủ nhưng quyết đoán, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải “gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, làm nó thành ý kiến của quần chúng và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời, nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành. Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, biến hóa biến hóa linh động hơn, đầy đủ hơn lần trước.
Phong cách lãnh đạo dân chủ thì phải dựa &o quần chúng; là cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu không được quan liêu, hách dịch, coi thường quần chúng nhân dân. Phải biết đời sống thực của nhân dân như thế nào, khả năng thực của nhân dân ra sao? Họ đang nghĩ và đang mong muốn những gì? Mỗi lời nói, mỗi việc làm của người cán bộ phải phù hợp với quần chúng, phản ánh đúng được khát vọng của quần chúng. Cán bộ phải biết được những băn khoăn trăn trở của dân để kịp thời uốn nắn và tháo gỡ cùng dân. Người phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ không dân chủ, dẫn đến tình trạng người có ý kiến không dám nói, người muốn phê bình không dám phê bình, làm cho cấp trên cấp dưới xa rời nhau, quần chúng với Đảng xa cách nhau, không còn sáng kiến, không còn hăng hái Dường như làm việc.
Người đòi hỏi phải có phong cách làm việc thực sự dân chủ chứ không phải giả tạo, hình thức để che lấp ý đồ xấu của member. Bởi vì, mọi sự giả tạo đều làm suy yếu, thậm chí phá vỡ tập thể, mọi thói bề ngoài chủ nghĩa sớm muộn sẽ làm xói mòn, thậm chí triệt tiêu dân chủ.
Cán bộ lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu, là người có trọng trách trong một tập thể, vừa phải thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến của tập thể, đồng thời, phải quyết đoán, nhận thức đầy đủ nghĩa vụ và dám ra quyết định, dám làm, dám chịu bổn phận. Đây cũng chính là việc thực hiện nghiêm nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân đảm đang”. Theo Hồ Chí Minh, một người dù tài giỏi đến đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề, cũng không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã hội. bởi thế vì thế, rất bắt buộc phải có cách làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của tập thể, của đông đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của một tập thể, một đơn vị hay địa phương mà nếu chỉ riêng người cán bộ lãnh đạo, quản lý thì không làm nổi. Tập thể lãnh đạo là dân chủ.
member gánh vác là nêu cao nghĩa vụ của người lãnh đạo, người quản lý. Có ý thức tập thể cao, tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng không có tính quyết đoán, không dám chịu nghĩa vụ thành viên trước tập thể, thì không thể có những quyết định kịp thời, đáp ứng yêu cầu và công việc cũng không thể tiến triển được. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý rằng: “Những việc thông thường, một người có thể giải quyết đúng, thì người đảm đương cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định”.
Xem Thêm : Tại sao người chết phải để nải chuối lên bụng? – Tangle24h
Theo Hồ Chí Minh, nghĩa vụ của người đứng đầu phải được đề cao, đôi khi mang tính quyết định đến hiệu quả công việc. Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đúng đắn là phải kết hợp thống nhất giữa cách làm việc dân chủ, tập thể với tính quyết đoán, dám chịu nghĩa vụ cá nhân trước tập thể, kịp thời đưa ra những quyết định đúng. Trong những thời điểm quyết định, người lãnh đạo, quản lý phải dám nghĩ, dám làm, dám quyết… điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc tận dụng được thời cơ.
Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân cáng đáng, thực hiện nghĩa vụ của người lãnh đạo, người đứng đầu để khắc phục những hiện tượng coi thường tập thể, hoặc ngược lại, dựa dẫm, ỷ lại &o tập thể, không dám quyết đoán, không nêu cao trách nhiệm cá nhân… làm trì trệ, suy yếu năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý của người cán bộ lãnh đạo.
2. Phong cách lãnh đạo sâu sát
Trong thực tiễn, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về phong cách lãnh đạo sâu sát. Theo tài liệu thống kê của bảo tàng Hồ Chí Minh, chỉ tính trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1955-1965), không quản tuổi cao, công việc bận tối mắt tối mũi, Người đã thực hiện hơn 300 lượt đi thăm các địa phương, công trường, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ chếi…, từ miền núi đến hải đảo, để thăm hỏi chiến sỹ và đồng bào, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Tính ra mỗi năm, có hơn 60 lượt Người đi xuống cơ sở, mỗi tháng có khoảng 6 lần Người bắt gặp gỡ gỡ quần chúng. Ngoài ra, hằng ngày qua đọc báo, đọc thư của nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần tiếp thu, những việc gấp cần giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại, chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết.
Lãnh đạo sâu sát sẽ nâng cao được tính khách quan, minh bạch, tăng cường được công tác kiểm tra, gigiết hại, từ đó kiểm soát tốt hơn đối với việc thực thi quyền lực, kiểm tra, gigiết hại chặt chẽ việc sử dụng tài sản của Nhà nước, của nhân dân, góp phần phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. Hồ Chí Minh yêu cầu dựa &o quần chúng nhân dân để gigiết hại, kiểm tra, nhằm loại trừ các hành động trục lợi, ăn cắp, tham ô, đục khoét, biến của công thành của riêng… Theo Hồ Chí Minh, sau khi nghị quyết đã được cho ra đời, phải tổ chức tốt việc thực hiện để nghị quyết đi &o cuộc sống. Điều đó gắn liền với công việc kiểm tra, gigiết hại. Muốn tốt, “phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Theo Người, sở dĩ sự thật còn bị bưng bít vì sự kiểm tra, giám sát của các ngành, các cấp, không nghiêm túc, chưa chặt chẽ.
Sau kiểm tra, giám sát, thì cái sai cần khắc phục, sửa chữa ngay và cái đúng, cái tốt phải được động viên khen thưởng, kịp thời, vì khen thưởng đúng người, đúng việc, đúng lúc sẽ động viên, giáo dục, tương tác người lao động hăng say làm việc. Người yêu cầu nhanh chóng biểu dương những tấm gương người tốt, việc tốt, động viên khuyến khích bằng vật chất hoặc tinh thần, nhằm phát triển cái tốt để chống lại cái xấu, vì mục tiêu xây dựng con người mới, làm cho xã hội ngày một tiến bộ. Mỗi khi đọc trên báo chí, thấy tấm gương “người tốt, việc tốt” nào, nhất là những người đi đầu khởi xướng phong trào, Người liền cử cán bộ đi xác minh và tặng “Huy hiệu Bác Hồ” cho người có thành tích xứng đáng.
3. Khéo dùng người, trọng dụng người tài
Người xác định, việc dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng người, đúng việc, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn” và phải cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải gánh vác. Dùng người mà không đúng công việc sẽ không chạy, không được việc, làm thui chột hào kiệt, vô ích cho Đảng và cũng biểu lộ sự yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải biết trọng dụng thiên tài, nếu không sẽ làm “thui chột” hào kiệt. Việc trọng dụng hào kiệt theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng những cây cỏ quý báu. Phải trọng hào kiệt, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trọng dụng nhân tài phải biết tuỳ tài mà dùng người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay &o việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”. chính do, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, trong lúc còn bộn bề khó khăn, thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ân cần tìm người tài để xây dựng đất nước và Người chính là tấm gương sáng cho việc tìm nhân tài và trọng dụng nhân tài. Sau khi cách mạng thành công, với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã quy tụ được nhiều trí thức đào tạo từ các nước phương Tây, quan lại triều đình phong kiến cũ phục vụ cho đất nước, như: Trần Đại Nghĩa, Huỳnh Thúc Kháng… Đặc biệt, việc Người tin tưởng giao trọng trách quốc gia cho các đồng chí: Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…, là những ví dụ điển hình về điều đó. Ngày 14/11/1945, trên Báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần có anh tài. tuấn kiệt nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân kiệt càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Người chủ trương phải “tìm người tài đức”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một quốc gia, một đất nước không biết sử dụng nhân tài là một khuyết điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và Nhà nước trong xây dựng và kiến thiết.
4. Phong cách cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, điều chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo là phải: “Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”.
Xem Thêm : Vì sao quan hệ lần đầu không ra máu? Ngoài trinh tiết còn 4 lý do sau
Đồng thời, người lãnh đạo phải có lòng niềm nở cách mệnh, đó là yếu tố cơ bản trong phẩm chất của người cán bộ đứng đầu, người lãnh đạo. Vì có niềm nở cách mệnh, người cán bộ lãnh đạo mới say mê, tận tụy với công việc để tìm ra những phương án sáng tạo nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Tính cách mệnh, lòng yêu nước, thương dân là động lực lớn thôi thúc người lãnh đạo, quản lý chuyên tâm, lo toan, tận tụy, say mê với công việc. Bên cạnh đó, người lãnh đạo phải có sự tìm tòi sáng tạo, đề xuất được những ý kiến hay, những phương án tối ưu để thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ lãnh đạo, phải là những người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có đạo đức cách mệnh, có tinh thần gan lì, gương mẫu, chịu đựng gian khổ, hy sinh và có năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, niềm nở cách mạng chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi nó được thống nhất với các tri thức khoa học và trên cơ sở khoa học. ân cần cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu tri thức khoa học. Thực tiễn cho thấy, có nhiệt tình mà thiếu tri thức khoa học sẽ dẫn tới sai lầm, chệch hướng, làm hỏng đường lối, chính sách, biện pháp hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá hoại vô ý thức. Những chương trình, dự án, kế hoạch với những ý tưởng tốt đẹp, nhưng do thiếu tri thức dẫn đến thất bại, gây ra tổn thất nặng nề.
Để có tri thức khoa học, người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải chịu khó ăn học, nghiên cứu để nâng cao trình độ về chính trị, văn hoá, nghiệp vụ cũng như nắm được tình hình trong và ngoài nước. Chủ quan, tự mãn, ít nghiên cứu lý luận và thực tiễn nên gặp thuận lợi dễ lạc quan, gặp thành công sớm dễ mắc phải căn bệnh kiêu ngạo; khi gặp khó khăn thì dễ lúng túng, thụ động, dẫn đến bi lụy, dao động, lập trường cách mạng không vững… Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ đảng viên nói chung, nhất là với cán bộ lãnh đạo: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. ăn học, nghiên cứu, “học và hành” theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm. Cán bộ, đảng viên cần phải có lý luận lãnh đạo cần nắm chắc lý luận mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Khẳng định vai trò của lý luận, Hồ Chí Minh chỉ rõ sự cần thiết phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn trong công tác lãnh đạo. Vì: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”, nên lý luận mà xa vắng thực tiễn thì sớm muộn sẽ dẫn tới bệnh giáo điều, sách vở, nên người cán bộ lãnh đạo phải nắm chắc lý luận, đồng thời qua kinh nghiệm làm việc, phải hiểu rõ sự vận động của các quan điểm lý luận trong thực tiễn, qua đó dự báo được những biến đổi của tình hình, của nhiệm vụ cách mạng, từ đó mới có thể thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.
Cùng với kiên định về nguyên tắc, những vấn đề chiến lược, thì sách lược cách mạng, các bề ngoài, phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành phải mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với thực tế để có thể đạt kết quả rất chất lượng. Trong bản Di chúc, Người nói lên mong muốn cuối cùng, cũng là mục tiêu chung của cuộc cách mạng là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Tuy nhiên, con đường đi đến mục tiêu đó là con đường đấu tranh lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ. Người đứng đầu, người lãnh đạo cần sáng suốt, tỉnh táo, nhạy bén để xác định sách lược, hiệ tượng, biện pháp thực hiện trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể, trong mỗi bước tiến, mỗi bước tiến lên của cách mạng.
Tóm lại, những nội dung xây dựng phong cách lãnh đạo của người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã phân tích ở trên nêu trên không nằm ngoài những quy định chung trong phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên; đồng thời, có yêu cầu cao hơn, diễn tả vị trí, vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trên cương vị lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh là bài học quý để mỗi cán bộ, đảng viên nghiên cứu, ăn học, nhằm không ngừng hoàn thiện mình, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Tài liệu tham khảo thêm:
Chuyên đề “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong ăn học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2018.
Hồ Thu HiềnTheo Tạp chí cảnh sát nhân dânHuyền Trang (st)
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp