Nội dung chính
Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Tiểu sử Thánh Gióng: Phù Đổng Thiên Vương từ truyền thuyết đi. Bài viết ai la phu dong thien vuong lien quan tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
Trong tâm thức dân gian của người Việt, Phù Đổng Thiên Vuong Thánh Gióng mô tả cho sức mạnh rộng lớn của sự chiến đấu chống ngoại xâm của cộng đồng để bảo vệ cuộc sống chung.
Bạn Đang Xem: Tiểu sử Thánh Gióng: Phù Đổng Thiên Vương từ truyền thuyết đi
Từ một truyền thuyết mang màu sắc huyền bí trong Chích quái, Phù Đổng Thiên vương đã được sử thần nhà Lê cải biến thành Bức Ảnh của một vị anh hùng chân thực hơn, mang theo một thông điệp chính trị để người dân Việt mãi ghi nhớ công ơn lập quốc của Lê Thái Tổ.
Trong tích truyện dân gian, chúng ta có một Thánh Gióng hoàn toàn thuộc về nhân dân, còn vai trò của vua Hùng không hơn gì một thanh kiếm gãy.
Truyền thuyết đánh giặc cứu nước của Phù Đổng Thiên Vương (hay còn gọi là Đổng Thiên vương, Sóc Thiên Vương, Xung Thiên Thần vương, Thánh Gióng) được ghi chép sớm nhất dưới dạng văn bản là Lĩnh Nam chích quái (từ đây gọi tắt là Chích quái)1, ra đời dưới thời nhà Trần. Sang thời nhà Lê, vua Thánh Tông sai sử quan Ngô Sĩ Liên sưu tập sách vở các đời để chép bộ Đại Việt sử ký toàn thư (từ đây gọi tắt là Toàn thư). Truyền thuyết về Đổng Thiên vương cũng được Ngô Sĩ Liên đưa &o chính sử, nhưng rút gọn rất nhiều so với Chích quái:
bình luận về ghi chép của Toàn thư trong thời Hùng Vương, sử gia Ngô Thì Sĩ viết: “Sử cũ [tức Toàn thư] chép việc Phù Đổng Thiên Vương xin kiếm đánh giặc và việc Sơn Tinh, chai lọ thủy tinh tranh giành một Mỵ Nương, đều do truyện Lĩnh Nam chích quái ghi tô vẽ lời văn. Truyện Phù Đổng [trong Toàn thư] không nói tới quân nhà Ân, không nói tới việc đúc ngựa sắt, không nói hắt hơi thành mình dài cao, cũng đã nghi là quái đản…” (Đại Việt sử ký tiền biên, trang 43-44).
Vậy thì Chích quái ghi chép “quái đản” thế nào và Toàn thư cải biên lại nhằm mục đich gì?
Thánh Gióng trong Toàn thư và Trích quái
Mặc dù không chép rõ triều đại tương quan giữa hai nước Việt và Trung, nhưng liền sau mẩu chuyện về Xung Thiên Thần Vương thì Toàn thư chép tới việc đời Thành Vương nhà Chu, và kế tiếp là nữa là câu truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh – Thục Phán để kết nối với thời nhà Tần bên Trung Quốc. Do vậy, theo thứ tự thời gian, có thể ngầm hiểu sự tích Thánh Gióng tương ứng với nhà Ân Thương của Trung Quốc. Điều này phù hợp với ghi chép về triều đại Trung Quốc trong Chích quái.
Chích quái mở đầu câu truyện bằng vấn đề xung đột Nam Bắc: “Hùng Vương cậy nước mình giàu mạnh, mà chểnh mảng việc triều cận [Bắc phương]. Vua nhà Ân mượn cớ tuần thú sang xâm lược” (Chích quái, trang 48).
Tiếp nối tư tưởng Hoa tâm như trong truyền thuyết Lạc Long Quân, Chích quái luôn có tâm thế coi Bắc quốc là thiên triều còn Nam quốc là chư hầu. Bởi là chư hầu nên vua Hùng phải &o chầu (triều cận), và khi nổi hứng thì vua phương Bắc có quyền tuần thú phương Nam.
Toàn thư bác bỏ hoàn toàn, không nhắc tới giặc Ân, và tuyệt không nhắc tới việc vua Nam sang chầu hay vua Bắc tuần thú; chỉ đơn giản là “trong nước có việc nguy cấp [nguyên văn: quốc nội hữu cảnh]”.
Có lẽ chính bản thân sử thần nhà Lê cũng nhận ra sự phi lý nếu giữ nguyên việc giặc Ân (hay Ân vương) vượt qua vạn dặm xâm lược nước ta từ thời đó, nên ông đã làm mờ đi sự kiện này, chỉ chép chung chung rằng trong nước có việc nguy cấp3, để người đọc sẽ tự có sự liên tưởng.
Lĩnh Nam Chích quái kể tiếp: “Có người phương sĩ tâu rằng: sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên giúp!”
Tiếp nối câu truyện “cha rồng mẹ tiên”, coi năm mươi người con theo cha xuống thủy phủ không phải loài người, Chích quái cho Long vương (chỉ Lạc Long quân) điều khiển “quân âm” giúp đỡ (nguyên văn: dĩ âm tương chi). Yếu tố này không hợp với tinh thần “Kinh Trại chung gốc” của nhà Lê nên Toàn thư lược bỏ. Thay &o đó, khi đất nước lâm nguy thì vua nước Nam “sai người đi tìm người có thể đánh lui được giặc”.
Chích quái tiếp tục kể về sự ra đời của cậu bé làng Phù Đổng (Sau này là Thánh Gióng), và cậu bé ba tuổi không biết nói ấy đột nhiên đột nhiên trò chuyện với mẹ, rồi nhắn với sứ giả của vua “Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải lo gì nữa?” (Chích quái, trang 49-50).
Dĩ nhiên Ngô Sĩ Liên là bậc đọc nhiều hiểu mênh mông rãi, ông biết thời Ân Thương, chúng ta (và cả thế giới) chưa tiến &o thời kỳ đồ sắt, nên “một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt” mà Chích quái đề cập đã bị Toàn thư lược bỏ. Chỉ đơn giản “một con ngựa và một thanh gươm”5.
Xem Thêm : Tìm hiểu diễn biến nhiễm sắc thể ở kì giữa của sinh vật – Giấy Hải Tiến
Việc không nhắc tới ngựa và binh khí bằng sắt, chúng ta có thể hiểu được, thế nhưng tại sao ngọn roi và chiếc nón lại bị Toàn thư cắt khỏi truyền thuyết? Theo thiển ý của người viết thì vua Lê Thánh Tông cho sử thần đưa thời kỳ Hùng Vương &o chính sử, là để người dân Đại Việt nhìn nhận vấn đề người Kinh/người Trại, người Việt/người Mường cùng chung một gốc (xem thêm kỳ 2 loạt bài Từ truyền thuyết đi &o chính sử, Tia Sáng số 24 năm 2020).
Trong đó, Hình ảnh những người không có gốc gác Việt luôn được đề cao, đó là năm mươi người con theo Lạc Long Quân về miền Nam, là những người Man giúp Sơn Tinh đánh Thủy Tinh, và sau này còn có Triệu Việt Vương nữa.
Và có thể để tạo dựng Hình ảnh gắn kết của triều nhà Lê với những người Kinh Lộ, Ngô Sĩ Liên đã miêu tả Đổng Thiên Vương giống như Bức Ảnh Tỉnh Bình Định Vương Lê Lợi khởi nghĩa chống lại giặc Minh.
Hình tượng của vua Lê Lợi đã được Lam Sơn thực lục khắc họa là vị anh hùng gắn với thanh kiếm Thuận Thiên: “Lại một hấp ủ ấp ấp ấp, nhà vua ra ngoài cửa, thấy một cái chuôi gươm đã mài dũa thành hình, nhà vua lạy trời khấn rằng: ‘Nếu quả là gươm trời cho, thì xin chuôi và lưỡi liền nhau!’ Bèn lấy mảnh sắt lắp &o trong chuôi, bèn thành ra chuôi gươm” (Lam Sơn thực lục, trang 21).
Hình ảnh vua Lê Thái tổ cùng thanh kiếm Thuận Thiên còn tiếp tục xuất hiện trong sự tích hồ Hoàn Kiếm (Kho tàng truyện cổ tích – Nguyễn Đổng Chi). Mặc dù chưa xác định được thời điểm ra đời của sự tích này, nhưng ta có thể tạm giả định rằng nó ra đời ở khoảng thời Lê Sơ cho tới Lê Trung Hưng.
Và theo thời gian, các cái brand name đặt cho hồ như Lục Thủy, Tả Vọng đã không còn tồn tại mà thay &o đó là hồ Hoàn Kiếm, hồ Gươm, minh chứng cho sức mạnh ăn sâu &o lòng người của truyền thuyết vua Lê trả kiếm.
Như vậy, việc Ngô Sĩ Liên lược đi cây roi và chiếc nón của Đổng Thiên Vương, khiến cho Hình ảnh của vị thánh xuất thân dân dã trở nên rất gần với hình ảnh của vị hero Lê Lợi, chỉ với một thanh kiếm Thuận Thiên mà đánh đuổi được quân xâm lược, đem lại hòa bình, độc lập cho nước Việt.
Quá trình trưởng thành và chiến đấu của Thánh Gióng với giặc lại là một điểm khác biệt cực kỳ lớn giữa Toàn thư với Chích quái. Chích quái kể rằng vua sai người ban ngựa, gươm, roi, mũ tới cho Thánh Gióng, rồi “Con cả cười bảo rằng: ‘Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo.’ Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung đốn không đủ.
Hàng xóm sửa soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con ăn vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy hoa lau buộc thêm &o cho kín người” (Chích quái, trang 52).
Đổng Thiên Vương trong Toàn thư không vươn mình lớn dậy, cũng không cần nhân dân nuôi nấng. Cho tới khi đánh giặc rồi về trời, cậu vẫn là một cậu bé:“Đứa trẻ (nguyên văn: 小兒 – tiểu nhi) phi ngựa lên trời mà đi”.
Về chuyện ban ngựa và vũ khí, Chích quái viết: “Kíp đến lúc quân nhà Ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, người con duỗi chân đứng dậy cao hơn mười thước (có chỗ nói là trượng) ngửa mũi hắt hơi liền hơn mười tiếng, rút kiếm thét lớn: ‘Ta là thiên tướng đây!’ rồi đội nón cưỡi ngựa” (Chích quái, trang 52).
Đoạn văn cho thấy vua Hùng đã sai mang ngựa và vũ khí tới làng Phù Đổng cho cậu bé, Bên cạnh đó Toàn thư viết khác: “Vua ban cho gươm và ngựa, đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân theo sau…” Toàn thư đã tạo cho người đọc cảm giác vua triệu cậu bé &o triều rồi ban gươm phong tướng, sai đi giết giặc, rất khác với sự bị động trong Chích quái, đem ngựa và vũ khí tới rồi phó mặc cho cậu bé tự động thái.
Hình ảnh của vua Lê Lợi đã được Lam Sơn thực lục khắc họa là vị anh hùng gắn với thanh kiếm Thuận Thiên. Tượng đài Lê Lợi ở TP Thanh Hóa.
Quá trình đánh giặc cũng vậy. Chích quái viết: “ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy mắt đã tới trước quân vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn giặc. Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều la bái kêu lạy thiên tướng rồi cùng đến hàng phục. Ân vương bị chết ở trong trận” (Chích quái, trang 52, 56).
Toàn thư nêu một vấn đề khác: “đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân theo sau, đánh tan quân giặc ở chân núi Vũ Ninh. Quân giặc tự quay giáo đánh lẫn nhau, chết rất nhiều, bọn sống sót đều rạp lạy, tôn gọi đứa trẻ ấy là thiên tướng, liền đến xin hàng cả.” Chích quái để cậu bé nay đã thành Thánh Gióng một mình dẹp tan quân giặc, còn Toàn thư miêu tả Đổng Thiên Vương dẫn đầu đạo quân của vua mà xông ra phá địch.
các điểm khác biệt kể trên dẫn tới cách nhìn Đổng Thiên Vương trong Toàn thư như là một vị tướng do trời ban cho vua Hùng, làm người dẫn đầu đạo quân của vua để dẹp giặc. Ông chỉ thác sinh trong dân gian, mà không do dân gian nuôi nấng để trở thành người khổng lồ Thánh Gióng. Bên cạnh đó, chi tiết “quân giặc tự quay giáo đánh lẫn nhau” lại tạo cho ta cảm giác thành phần hỗn tạp của quân giặc chứ không chỉ thuần một đám “giặc phương Bắc”.
Trong truyện cổ, còn có một Phù Đổng Thiên Vương khác
Xem Thêm : Ý Nghĩa Hoa Phượng – Cánh Phượng Thắm Của Tuổi Học Trò
Phiên bản truyện cổ tích Việt Nam đi theo một chiều hướng trái ngược hẳn. Khác với Chích quái và Toàn thư viết Xung Thiên Thần Vương sinh trong một gia đình “phú ông” thì truyện cổ viết: “&o thời Hùng Vương có một người đàn bà nhiều tuổi nhưng sống một thân một mình. Một hôm sáng dậy bà đi thăm nương, bỗng nhìn thấy một vết chân giẫm nát cả mấy luống cà.
Bà kinh ngạc kêu lên: ‘Ôi! Bàn chân ai mà to thế này!’ Bỗng bà cảm thấy rùng mình khi đưa bàn chân ướm thử &o dấu chân lạ. Từ đó bà có mang” (Kho tàng cổ tích Việt Nam – tập 1, trang 972). Chi tiết này dễ làm ta liên tưởng tới vua Lý Thái Tổ – người mà Toàn thư chép về sự ra đời: “mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có chửa”, và sau khi ông lên ngôi thì phong cho Đổng Thiên Vương danh hiệu Xung Thiên Thần Vương.
Quá trình trưởng thành và đánh giặc của vị Thánh Gióng cổ tích này là do mẹ và hàng xóm cung cấp cơm rượu mà thành khổng lồ, áo quần trên người do hàng xóm góp vải lụa. Thánh Gióng một mình xung trận, gươm (thứ vũ khí vua ban) gãy, ông nhổ bụi tre làm vũ khí đánh tan quân giặc. Một Thánh Gióng hoàn toàn thuộc về nhân dân, còn vai trò của vua Hùng không hơn gì một thanh kiếm gãy.
Thật khó để nói phiên bản cổ tích có xuất hiện trước thời Ngô Sĩ Liên chép Toàn thư hay không? Nhưng dù thế nào đi nữa, một “sản phẩm Thánh Gióng” hoàn toàn mang tính dân dã (như Thánh Gióng trong truyện cổ) hay nửa phần dân dã (như trong Chích quái) sẽ không thể được bất biến trong chính sử.
Phù Đổng Thiên Vương của Toàn thư là một hình ảnh tái hiện của Lê Thái Tổ với thanh gươm Thuận Thiên, là người được nhà trời cử xuống, chỉ huy quân đội đánh dẹp giặc dã, và kẻ thù xâm lược nước ta khi ấy: giặc phương Bắc, không phải giặc Ân mà chính là ám chỉ giặc Minh cùng đám ngụy quan ngụy binh theo giặc.
chính vì như thế thành phần hỗn tạp, nên khi quân Phù Đổng Thiên Vương xuất hiện, ngụy binh “tự quay giáo” theo quân triều đình, đánh lại giặc Minh. Một hình ảnh rất đẹp đẽ và có lẽ cũng quen thuộc với nhân dân ta vừa trải qua cuộc chiến tranh chống giặc.
Thế là từ một truyền thuyết mang màu sắc huyền bí trong Chích quái, Đổng Thiên Vương đã được sử thần nhà Lê cải biến thành hình ảnh của một vị anh hùng chân thực hơn, mang theo một thông điệp chính trị để người dân Việt mãi ghi nhớ công ơn lập quốc của Lê Thái Tổ.□
1. Trong các văn bản cổ còn lưu giữ được đến bây giờ có nhắc tới Sóc Thiên Vương thì có thể kể tới Thiền uyển tập anh, nhưng đó là một mẩu truyện khác, không liên quan đến sự tích đánh giặc cứu nước. Việt điện u linh tập (phần Tục bổ) ghép giữa sự tích Sóc Thiên vương của Thiền uyển tập anh với sự tích Đổng Thiên Vương đánh giặc, nhưng lại ghi rõ là “Hoặc có kẻ nói các bô lão tương truyền rằng không nhớ về đời nào”.
2. Bản dịch Chích quái thêm hai chữ “Bắc phương” &o cuối câu, nguyên văn không có. Cổ tích Việt Nam không nhắc tới vấn đề “triều cận”, nhưng ghi rõ là giặc Ân.
3. Vì ảnh hưởng sâu rộng của Lĩnh Nam chích quái cùng các câu chuyện truyền thuyết, cổ tích mà một số sử sách lầm tưởng chính sử nước nhà cũng chép rằng Thánh Gióng đánh giặc phương Bắc (giặc Ân). Có thể kể tới Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Việt sử tân biên của Phạm Văn Sơn, hay Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy Chú tuy không phải chép về sử nhưng viết về cổ tích Kinh Bắc, Bắc Hà, khi nhắc tới Trâu Sơn và núi Vệ Linh cũng cho rằng Đổng Thiên Vương đánh Ân Vương.
4. Truyện Đổng Thiên Vương trong Chích quái dùng cả Long vương và Long quân để chỉ cùng một nhân vật. Các truyện trước đó như Họ Hồng Bàng, Ngư tinh, Hồ tinh đều dùng Long Quân để chỉ Lạc Long Quân.
5. Trong các phiên bản kể về Thánh Gióng, các món đồ vua ban cho có sự khác biệt nhất định. Toàn thư và Việt điện u linh tập chép là ngựa và gươm; Chích quái liệt kê ngựa, roi, kiếm, nón đều bằng sắt; Cổ tích Việt Nam kể là ngựa, gươm, nón và giáp bằng sắt.
Lễ hội
Hội đền Gióng được tổ chức long trọng tại nhiều nơi trong đó có hai nơi: là hội Gióng ở đền Sóc Sơn tại núi Sóc huyện Sóc Sơn &o 6/1 âm lịch và hội đền Phù Đổng, xã Phù Đổng huyện Gia Lâm &o ngày mồng 9/4 âm lịch đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Phong giao Kinh Bắc xưa có câu: “Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu cũng kéo về xem hội Gióng”.
Tượng đài
Được khánh thành ngày 5 tháng 10 năm 2010, trên đỉnh núi Ðá Chồng của khu du lịch tâm linh Ðền Sóc – Chùa Non thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn. Tượng được đặt tại nơi tương truyền rằng sau khi dẹp xong giặc Ân, cậu bé làng Phù Ðổng đã cởi áo giáp, vẫy chào quê hương bay về trời.
Tổng hợp
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp