Nội dung chính
Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa TOP 14 mẫu Phân tích 2 khổ cuối Tràng giang – Văn 11 – Download.vn. Bài viết phan tich 2 kho tho cuoi bai trang giang tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
TOP 14 bài Phân tích 2 khổ cuối Tràng giang của Huy Cận là tài liệu nhằm giúp cho các em lớp 11 tự học 1 cách thuận lợi, đặc biệt là trong việc chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp. Từ đó đạt được kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi giữa học kì 2 Ngữ văn 11 sắp tới.
Bạn Đang Xem: TOP 14 mẫu Phân tích 2 khổ cuối Tràng giang – Văn 11 – Download.vn
Hai khổ thơ cuối Tràng giang không chỉ mở ra trước mắt chúng ta khung cảnh sông nước bát ngát rãi mà còn bộc lộ nỗi lòng sầu muộn của người thi nhân. Hai khổ thơ gieo &o lòng người đọc một nỗi buồn man mác, thế nhưng nỗi buồn ấy cũng thật đẹp bởi đó đều là những cảm xúc quen thuộc. Bên cạnh đó Anh chị em bài viết liên quan bài văn phân tích Tràng giang.
TOP 13 mẫu Phân tích 2 khổ cuối Tràng giang
- Dàn ý phân tích 2 khổ cuối Tràng Giang
- Phân tích 2 khổ cuối Tràng giang đạt điểm cao
- Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng giang
- Phân tích 2 khổ cuối Tràng giang
Dàn ý phân tích 2 khổ cuối Tràng Giang
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
“Lời tuyệt vọng là lời ca hay nhấtTiếng nấc kia chứa tuyệt bút muôn đời”
(Muytxe)
Những cảnh đẹp nhất lại mang nỗi sầu buồn khôn xiết, những câu thơ buồn nhất lại chạm đến tâm hồn con người một cách nhằm nhè nhất. Nói về nhà thơ của nỗi buồn, có lẽ không ai vượt qua được Huy Cận. Nói về bài thơ buồn nhất của Thơ mới, của thơ ca không thể không có “Tràng giang”.
II. Thân bài: cảm nhận 2 khổ cuối của bài Tràng giang
1. bao quát
– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác
– Nội dung, nhan đề
- Được chấp bút &o 1 trong các buổi chiều mùa thu năm 1939 khi Huy Cận vừa tròn 20 tuổi, “Tràng Giang” tiêu biểu nhất cho hồn thơ Huy Cận.
- Lê Duy từng nhận xét:
“Là tràng giang – khổ nào cũng bồng bềnh sóng nước
Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.”
+ “Tràng giang” trước hết là bức họa đồ về “trời bao la rãi sông dài”, là cái mênh mông rãi của sông nước muôn đời của quê hương đất nước Việt. Ngay tên nhan đề bài thơ: hai chữ “Tràng giang” mang sắc thái cổ kính từ xưa vọng về. “Tràng giang” chứ không phải “trường giang” bởi vần “ang” mới gợi sự minh mông vô tận, lan ra bờ bãi bạt ngàn. Nhưng sẽ cảnh có cảnh đó nếu tình không trĩu nặng và ưu sầu đến thế. Trong cảnh là tình, tình hòa &o cảnh để làm nên những phong cảnh tuyệt bút và tình cảm tuyệt mĩ.
2. Nêu cảm nhận
a) Cảm nhận khổ 3: Nỗi cô đơn, sầu buồn về sự trôi nổi, lênh đênh vô định kiếp người
– Hai câu thơ: “mênh mang… niềm nhiệt tình”
– Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất hiện liên tiếp đã phủ định tất cả các gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên là những thế giới xa lạ. Chỉ có “bờ lau tiếp bãi &ng” và những mặt nước mặt nước mặt nước mặt nước mặt nước mặt nước cánh bèo mặt nước mặt nước mặt nước mặt nước mặt nước mặt nước mặt nước mặt nước mặt nước mặt nước lênh đênh đang trôi dạt về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, biệt li lại càng được tô đậm bằng Bức Ảnh những cánh bèo trôi nổi.
b) Cảm nhận khổ cuối: nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp
* 2 câu đầu:
– Nội dung của hai câu đầu trong khổ thơ cuối là không gian bao la hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn.
– Thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng: Những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên chiếu &o những núi, những mây chồng chất lên nhau khiến nó lung linh như những núi Tệ Tệ Tệ Tệ Bội bạc tình tình đãi Bẽo Bẽo đãi Tình Bẽo Bẽo đãi đãi. Một vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ.
– So sánh với câu thơ Lí Bạch: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu”, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông nhói lên ở những cảnh đời lúc bấy giờ
* 2 câu kết:
– Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường giang với những con sóng gợn ngợp trong lòng tác giả.
– Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê thì Huy Cận không cần chất xúc tác đó. Rõ ràng nỗi buồn không phải từ ngoại cảnh &o mà là nỗi buồn nội tâm con ng tràn ra không dứt. Người xưa xa quê mà nhớ quê còn Huy Cận đang đứng trước quê hương đất nước mà vẫn rưng rưng một nỗi nhớ nhà. Vì sao vậy? Đó không chỉ là nhớ về 1 vùng quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.
– Hình như Thế Lữ, Chế Lan Viên chọn cách sống trong một cõi mộng với “tiếng sáo thiên thai”, với “tinh cầu giá lạnh đơn độc giữa vườn xa”, khi Vũ Hoàng Chương chìm đắm trong thuốc phiện và xa hoa thì “Tràng Giang” của Huy Cận thực sự là “bài ca giang san đất nước, dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu)
3. Đánh giá
– Bài thơ có sự kết hợp tuyệt diệu giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi lên cảnh sông nước đất Việt mà còn là nỗi niềm của người con trước giang san đất nước.
– Nghệ thuật: Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Bức Ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận ngày hấp ôm nay rồi.
III. Kết bài
– Tổng kết lại, nêu cảm nghĩ về 2 khổ cuối bài thơ Tràng giang
– Với Huy Cận, “Thơ không chỉ là thế giới của cái đẹp mà còn là cái đẹp độc đáo. Nhà thơ đã gọi dậy được cái hồn buồn của Đông Á…đã khơi dậy lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này(Hoài Thanh). Xét đến cùng, “cái tiếc sớm, cái thương ngừa ấy chẳng qua là sự cải trang của lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống” (Xuân Diệu) mà thôi.
Phân tích 2 khổ cuối Tràng giang đạt điểm cao
Huy Cận là gương mặt nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới của Việt Nam. Trước cách mạng tháng Tám, thơ ông chất chứa một nỗi buồn man mác, đó là nỗi buồn của người trí thức luôn đau đáu một nỗi niềm trước thời thế loạn lạc. “Tràng giang” được coi là bài thơ tiêu biểu nhất cho tài năng và phong cách sáng tác ấy. Đặc biệt, trong 2 khổ thơ cuối của bài, nhà thơ đã tái hiện đầy khắc khoải nỗi buồn thương, sầu não của một con người đang cảm thấy lạc lõng, cô độc giữa cuộc đời bát ngát rãi rãi.
Nếu như những khổ thơ đầu, nhà thơ Huy Cận tập trung miêu tả khung cảnh sông nước, mây trời mênh mông rãi rãi, rợn ngợp thì ở hai khổ thơ cuối, nhà thơ đã trực tiếp bộc lộ tâm trạng phiền não và những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về kiếp người:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;mênh mang không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm niềm nở,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng.
Bức Ảnh “bèo dạt” không chỉ mang ý nghĩa tả thực về cảnh vật mà nhà thơ bắt bắt bắt phát giác gỡ gỡ gỡ gỡ gỡ trên sông mà còn gợi ra sự nhỏ bé, trôi nổi lênh đênh của những kiếp người giữa cuộc đời minh mông. Sông nước bao la, minh mông nhưng buồn vắng đến cùng cực “minh mông không một chuyến đò ngang”, dù cố gắng tìm kiếm nhưng nhà thơ không tìm thấy dù một “chút niềm đon đả”. Câu thơ “Không cầu gợi chút niềm niềm nở” tựa như một tiếng thở dài đầy bất lực của nhà thơ khi chẳng thể tìm kiếm được một chút hơi ấm của con người, của sự sống. Điệp từ “không” đã cực tả sự vắng lặng của không gian, nó phủ định tất cả những gì gắn kết giữa con người và thiên nhiên sông nước, không có con đò, không cầu, không chút niềm nhiệt tình. Tất cả mở ra trước mắt của nhà thơ chỉ có sự bao la, hoang vắng đến rợn ngợp.
Từ láy “lặng lẽ” cực tả sự vắng lặng đồng thời cũng gợi ra sự tồn tại nhạt nhòa, không mang đến ấn tượng sâu đậm của “bờ xanh”, “bãi &ng”. Sự xuất hiện của bờ, bãi phía 2 bên sông cùng những Bức Ảnh gợi liên tưởng đến sự sống xanh, &ng vẫn không đủ để làm cho bức họa đồ sông nước bớt đi phần hiu quạnh, trống vắng bởi bờ xanh, bãi &ng chỉ là những cảnh vật vô tri, nó không “chút quan tâm”, giao hòa gì với nhau. Và cũng bởi lẽ, khi con người mang nỗi sầu muộn thì cảnh vật cũng trở nên ảm đạm, đìu hiu hơn giống như nhà thơ Nguyễn Du từng nói:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Giữa trời đất bát ngát rãi, bát ngát rãi rãi rãi nhưng nhà thơ Huy Cận lại không tìm được một tiếng nói đồng cảm, tri âm, không có một ai có thể thấu hiểu được tâm trạng và những nỗi buồn đang giăng kín trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi phiền muộn, u sầu không thể bày tỏ, chỉ có thể tự mình giữ lấy nên nó càng nhức nhối, khắc khoải.
Lớp lớp mây cao đùn núi Bạc đãi,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Không thể tìm thấy một chút giao cảm từ khung cảnh sông nước, nhà thơ Huy Cận hướng sự chú ý của mình đến không gian minh mông, khoáng đạt của hoàng hôn. Từ láy “lớp lớp” gợi liên tưởng đến rất nhiều sự vật chất chồng lên nhau. “Lớp lớp mây cao đùn núi Bạc đãi” mở ra khung cảnh huy hoàng, tráng lệ với những đám mây bàng đan xen, xếp chồng lên nhau. Động từ “đùn” gợi ra sự tiếp diễn, dâng lên ngày càng mạnh mẽ. Chúng ta cũng từng gặp gỡ trong thơ Nguyễn Trãi:
“Rồi hóng mát thuở ngày trườngHòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc ” thật đẹp nhưng cũng thật buồn bởi nó càng tô đậm thêm sự trống trải, hoang vắng. Hình ảnh những đám mây lớp lớp còn gợi ra những cảm xúc bộn bề cứ khoắc khoải, xếp chồng lên nhau. Sự xuất hiện của Hình ảnh cánh chim trong “bóng chiều xa” càng tô đậm nỗi trống vắng, cô đơn trong tâm hồn của nhà thơ. Giữa khung cảnh hùng vĩ, huy hoàng của những đám mây bàng bạc, cánh chim càng trở nên nhỏ bé, nó cũng giống với tâm trạng cô đơn, lạc lõng của nhà thơ giữa cuộc đời mênh mang.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Từ láy “dợn dợn” là sáng tạo đặc biệt của nhà thơ Huy Cận, khi được hô ứng với “vời con nước” đã khắc họa sống động nỗi niềm bâng khuâng, cô quạnh của một con người đang nhớ về quê hương. Khói hoàng hôn trong thơ ca cổ điển thường là dấu hiệu gợi nhắc con người ta nhớ về quê hương, trong thơ Thôi Hiệu có viết: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Thế nhưng, nếu những thi nhân xưa nhìn khói trên sông nhớ về quê nhà thì nỗi nhớ của Huy Cận da diết, khắc khoải hơn, nhà thơ không nhìn khói hoàng hôn vẫn nhớ nhà. Có lẽ rằng nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng nhà thơ nên dù không có “chất xúc tác”, nhà thơ vẫn khôn nguôi một tấm lòng quê.
Hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang không chỉ mở ra trước mắt chúng ta khung cảnh sông nước mênh mông, rợn ngợp mà còn bộc lộ nỗi lòng sầu muộn của người thi nhân. Hai khổ thơ gieo &o lòng người đọc một nỗi buồn man mác, thế nhưng nỗi buồn ấy cũng thật đẹp bởi đó đều là những cảm xúc quen thuộc, có phần mơ hồ mà chúng ta vẫn thường trải qua, thế nhưng qua ngòi bút của Huy Cận nó lại thật thơ, thật da diết. Như nhà phê bình Hoài Thanh cũng từng nhận định: “Huy Cận lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành bao châu ngọc”.
Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng giang
Bài làm mẫu 1
Huy Cận là nhà thơ nổi bật của phong trào thơ mới và là một trong những cây đại thụ của thơ ca Việt Nam hiện đại. Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta sẽ thấy được cái đặc trưng đặc biệt của thơ Huy Cận. Ông thường được nhắc nhớ bởi hồn thơ của những nỗi sầu vạn cổ hay nhà thơ của những nỗi niềm khắc khoải không gian.
Bài thơ “Tràng giang” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Huy Cận, được in trong tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay nhưng đã bộc lộ được cái “chín” trong sáng tác của ông. Bài thơ gợi mở không gian sông Hồng, đoạn bến Chèm &o mùa nước nổi. Thời điểm viết bài thơ Huy Cận đang là sinh viên của trường Cao đẳng Canh nông. Đứng trước cảnh sông nước mênh mang, ông biểu đạt tâm trạng cô đơn, u sầu và sự lạc loài của số kiếp con người trước vũ trụ bát ngát rãi, vô thủy, vô chung. Điều này người đọc có thể cảm nhận rõ nhất ở hai khổ cuối bài thơ.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;bát ngát không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm quan tâm,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
“Tràng giang” là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, trang trọng và gợi cho ta nhớ đến dòng sông chia lìa từng gặp trong thơ Lí Bạch. Bên cạnh đó, vần “ang” trong hai từ khi đọc lên như vang vọng và gợi không gian bát ngát rãi xa vắng, cái trải dài của bãi bên bờ sông nước. bởi vì, ngay từ nhan đề, Huy Cận đã mở ra một cửa ngõ nhìn &o cái vô biên. Hai chữ “Trường giang” ngắn gọn nhưng đã khái quát và phần nào đã làm rõ tư tưởng, thông điệp của nhà thơ muốn gửi gắm trong bài thơ.
“Bông khuâng trời bát ngát nhớ sông dài”. Chỉ một câu thơ nhưng Huy Cận đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của cả tác phẩm. Đó là nỗi bâng khuâng, lòng thương nhớ của một con người bé nhỏ trước cảnh trời mênh mông rãi rãi rãi sông dài.
Đọc toàn bài thơ, ta thấy ở khổ thứ nhất nhà thơ hướng cái nhìn cảnh về những con sóng lăn tăn mặt sông, dừng mắt trên chiếc thuyền nhỏ chơ vơ, rồi một cảnh củi khô lạc loài giữa bốn bề sông nước; ở khổ thứ hai, Huy Cận đưa mắt ra xa hơn, bát ngát hơn với cái nhìn bối cảnh bát ngát. Và đến khổ thứ ba, Huy Cận lại nhìn về dòng sông, như đang đưa mắt tìm kiếm những điều thân thuộc, chút hơi ấm cho tâm hồn đang cô đơn, lạnh giá. Nhưng khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy thiên nhiên dường như chỉ hững hờ trước những mong mỏi ấy của nhà thơ, bởi bao quanh bốn bề chỉ là vẻ đìu hiu, quạnh quẽ:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,bao la không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm nhiệt tình,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng”.
Thay vì những thuyền, những cành củi khô hiện lên trong cái nhìn cận cảnh dòng sông ở khổ đầu; ở khổ thứ ba này hiện lên Hình ảnh không kém phần buồn bã: những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Dòng sông vốn đã “buồn điệp điệp”, sự xuất hiện của những cánh bèo trôi nổi càng làm cho con nước thêm hiu quạnh. Những cánh bèo dạt ấy là sự nối tiếp của Hình ảnh “con thuyền xuôi mái” và “củi một cành khô” xuất hiện ở khổ thơ đầu. Và cũng từ đây, từ Bức Ảnh cánh bèo trôi dạt, cảm giác về kiếp người phù du vô định cũng được gợi ra. Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, câu thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng” được ngắt nhịp 2/2/1/2. Cách ngắt nhịp này miêu tả được sự dao động của sóng nước và cũng khắc họa trạng thái bồng bềnh của những cánh bèo đang trôi dạt trên sông.
Còn với hai chữ “về đâu” Huy Cận muốn nói lên sự mất phương hướng, sự hoang mang và những dự cảm không an tâm về số phận con người trong thế giới không có sự gắn kết, sẻ chia. Giữa cuộc đời trăm ngả, bộn bề sống nhưng cô đơn, con người không biết phải đi về đâu. Huy Cận không biết phải hỏi ai nên tự hỏi mình, nhưng không tìm thấy một lời giải đáp.
Xem Thêm : Top 20 loài hoa đẹp nhất thế giới, có 1 loại mọc đầy ở Việt Nam
Đứng trước cảnh trời nước bao lao, nhà thơ mang tâm tình hướng đến sự giao cảm với con người, mong rằng sẽ bớt cô đơn, bớt quạnh hiu. Nhưng làm sao có thể thấy được yên ủi, khi “bao la rãi rãi không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm ân cần. Cái vẻ trống trải cô đơn của nhà thơ được tô đậm bổ hai từ phủ định “không” liên tiếp. Thực tế cây cầu hay con đò là những cảnh vật ta vẫn thường phát giác ở những niềm sông nước, bởi đó là phương tiện đi lại, phương tiện liên hệ, gặp giữa của con người. Nhưng ở đây nhà thơ lại không hề thấy xuất hiện. Không có cây cầu nối hai bên bờ sông nước để gần gũi, không có một chuyến đò để đón đưa khách qua sông. Mọi thứ chỉ là vẻ hoang vắng, là màu &ng màu xanh da trời của bãi bờ tiếp nối nhau:
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng”
“Lặng lẽ” là từ láy gợi tả vẻ im lặng của không gian, cùng với Hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi” không gian đôi bờ tràng giang càng thêm hoang vắng, tiêu điều. Đọc câu thơ, người đọc có thể cảm nhận rõ dòng chảy lững lờ của con sông qua khúc này tới quãng khác, nhưng luôn giữ cái vẻ âm thầm, vắng lặng. Dòng chảy của sông Hồng Hiện tại thật khác với vẻ tươi vui, xanh biếc của sông Hương chảy về thành phố Huế trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Như vậy, khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang mà trước nhất ở khổ thứ ba, ta thấy hiện ra một thế giới mang vẻ hững hờ, rời rạc. Và ở thế này, con người càng thêm nhằm nhò nỗi cô đơn hoang vắng tột cùng. Cái cô đơn âu sầu ấy như thấm &o từng câu chữ, từng bức ảnh trong khổ thơ. Nó phản chiếu nỗi cô đơn đã trở thành 1 căn bệnh của con người trong xã hội ở thế kỉ XX. Căn bệnh đã xuất hiện nhiều trong vhọc hành Phương Tây:
Mỗi người đứng cô đơn trên trái đấtTim xuyên qua một tia nắng mặt trờiVà chia liChiều đã tắt
chấm dứt bài thơ, Huy Cận vẽ nên cảnh hoàng hôn về trên vùng sông nước. Nỗi cô đơn vẫn còn tiếp nối và trải ra cùng những con sóng, lênh đênh theo những con thuyền, theo cành củi lạc loài, theo những cánh bèo trôi nổi và cho đến cuối cùng, lại kết thụ ở đoạn thơ cuối:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Trong khổ thơ cuối bài “Tràng giang”, ta thấy Huy Cận chia đôi khổ thơ làm hai phần rõ rệt. Hai câu thơ trên gợi cảnh trời mênh mông minh mông, hai câu cuối thì miêu tả cảnh sông dài. Mà song hành cùng với trời bát ngát rãi, sông dài là nỗi cô đơn u sầu, là niềm nhớ, nỗi hoài hương da diết của thi nhân, đặc biệt là &o lúc hoàng hôn đang buông khép lại một ngày.
Hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy Huy Cận thật tài hoa khi vẽ nên một nét chấm phá đậm dấu ấn Đường thi, phác họa cảnh hoàng hôn vùng sông nước:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Những lớp mây nối tiếp nhau, đùn dồn tụ, ngưng kết thành những dãy núi trùng điệp. Còn hoàng hôn như dát bạc lên những dãy núi, khiến chúng lấp ltia nắng ngời. Đọc câu thơ ta có thể hình dung ra khung cảnh thiên nhiên ấy thật kì vĩ, tráng lệ làm sao và gợi nhắc đến câu thơ Đường:
“Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmMặt đất mây đùn cửa ải xa”.
Giữa vùng trời mênh mang, người thi sĩ vẽ thêm một cánh chim đơn côi, bé nhỏ. Cánh chim nhỏ như đang chở nặng bóng chiều tà đi về phía ánh dương rồi mất hút. Ta không khỏi cảm thấy cánh chim ấy cũng đang mang nỗi sầu vũ trụ, mà nỗi sầu ấy nặng quá, chúng phải nghiêng đôi cánh nhỏ.
Chính sự kết hợp giữa các bức ảnh mây đùn đùn, trời minh mông và cánh chim bé nhỏ đang mang đến dư vị cổ điển cho tác phẩm của Huy Cận. Qua đó, độc giả cũng thấy rõ niềm khắc khoải không gian của Huy Cận. Một mình đứng trước vũ trụ bát ngát, đối diện với nỗi cô đơn, nhà thơ càng ăn thua cái vô tận, vĩnh hằng của không gian, thời gian và đồng thời là cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người.
Ở hai câu thơ cuối, nỗi cô đơn u hoài của Huy Cận còn tăng gấp bội khi ông dõi theo những con sóng đang gợn trôi trên dòng sông:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
lúc bấy giờ điểm nhìn của nhà thơ đã dịch chuyển từ cao xuống thấp, từ trời mây núi, cánh chim giữa không trung rồi dừng lại trước mặt nước bập bồng sóng. Từ láy “dợn dợn” mang tính gợi hình, vẽ ra những con sóng đang nhấp nhô trên mặt nước và khiến người nhìn rợn ngợp bởi những lớp sóng cứ dồn gối lên nhau. Còn nhịp 4/3 của dòng thơ lại gợi trạng thái gặp gỡ của những con sóng. Huy Cận đứng và phóng tầm mắt dõi theo những con sóng cứ bập bềnh triền miên, nỗi hoài nhớ quê hương cuối cùng đã dâng lên,
Trong thơ cổ điển,Bức Ảnh khói sóng trên sông đã trở thành nguyên cớ, thành cái dễ gợi nhắc nỗi niềm hoài hương của người thi sĩ. Còn ở đây, Huy Cận đã không còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố ngoại cảnh, là khói hoàng hôn để nói về nỗi niềm da diết nhớ quê hương. Như vậy, hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, Huy Cận đã không lặp lại người xưa ở cái nguyên cớ nhớ quê nhưng vẫn khiến người đọc thấy bâng khuâng, nao nao thương nhớ.
Nhưng hơn hết, nỗi lòng đối với quê hương không chỉ là nỗi nhớ nhà mà sâu sắc hơn, là nỗi buồn. Nỗi buồn của cả một thế hệ, một lớp người bởi cảnh nước mất nhà tan. vì thế, đằng sau nỗi nhớ quê nhà da diết ấy còn ẩn chứa ái tình đất nước thầm kín mà sâu sắc của Huy Cận.
Có thể nói, hai khổ thơ cuối bài “Tràng giang” là nơi hội tụ những đặc sắc nghệ thuật, nội dung sâu sắc của cả bài thơ. Ở đây ta thấy được phong vị cổ điển kết hợp hài hòa với tinh thần sáng tác hiện đại, và sự hài hòa giữa cảm xúc cá nhân và suy tư thời đại. Chính những sự cộng hưởng này đã khiến tâm trạng, cảm xúc, nỗi u sầu cô đơn và nỗi hoài vọng quê hương của Huy Cận càng thêm da diết, triền miên.
Bài làm mẫu 2
Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn tuyệt vọng… Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn tả bằng thơ. vì thế thơ không chỉ nói hộ lòng mình, mà thơ còn biểu hiện được nỗi buồn thiên cổ của cả một thế hệ mang trong mình cái tôi cô đơn, bế tắc trước cảnh nước mất nhà tan. “Tràng Giang” là một bài thơ như thế. Đặc biệt điều đó được biểu đạt rõ nhất qua hai khổ thơ cuối của tác phẩm.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cậu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ngLớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê rờn rợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Quả không sai khi bảo rằng, với người làm thơ bài thơ là một phương diện biểu đạt tình cảm, tư tưởng chỉ có cảm xúc thật tâm mãnh liệt với là cơ sở cho sự ra đời một tác phẩm nghệ thuật chân chính, cảm xúc càng mãnh liệt thăng hoa thì thơ càng nhiều bản lĩnh chinh phục ám ảnh trái tim người đọc. Mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật. Huy Cận đã không ngừng tìm tòi sáng tạo để tìm ra lối đi cho riêng mình và ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Tiêu biểu cho phong cách của Huy Cận có thể kể đến “Tràng Giang” theo lời kể của Huy Cận bài thơ được gợi cảm xúc từ một buổi chiều mùa thu năm 1939 khi tác giả đứng ở bờ Nam Bến chèm, trước cảnh sông Hồng mênh mông rãi sóng nước, nhiều cảm xúc thời đại dội về khi thi sĩ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé so với vũ trụ mênh mang, nên ông đã gửi gắm cả &o bài thơ này.
“Tràng giang” là một từ Hán Việt gợi tả liên tưởng tới không gian cổ kính, trang trọng “tràng” là một âm độc khác của từ trường trong tiếng Hán, hay âm “ang” đi liền với nhau đã gợi cảm giác về một con sông không chỉ dài vô cùng mà còn mênh mông bát ngát rãi và ta cảm thấy con sông ấy không chỉ là dòng sông hồng đỏ nặng phù sa, mà đó còn là con sông của ngàn xưa trong tâm tưởng.
Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, đã thâu tóm và gợi mở cảm xúc chủ đạo của bài thơ trước cảnh trời rộng, sông dài. Lòng người đã giấy lên tâm trạng bâng khuâng và nhớ, từ láy “Bâng Khuâng” đã diễn tả được tâm trạng của chủ thể trữ tình buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng và con sông dài miên man tít tắp ấy cứ vỗ đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động biết bao trái tim bạn đọc nhiều thế hệ.
Nếu ở hai câu thơ đầu nhà thơ miêu tả bức họa đồ thiên nhiên cùng nỗi sầu trăm ngả, gợi tả sự giận dữ vô cùng, vô tận của đất trời cùng cái tôi nhỏ bé, cô đơn của con người, thì đến khổ thơ thứ ba, tứ thơ trời rộng, sông dài đã được đẩy lên một bậc mạnh hơn.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”.
Câu hát bèo dạt mây trôi trong dân ca quan họ đã từng gợi lên trong lòng ta bao cảm xúc mơ hồ, thì trong bài thơ này Huy Cận cũng mượn Bức Ảnh của cánh bèo trôi trên sông để gợi lên sự hợp tan, chia lìa của một kiếp người chuân chuyên, sông cứ chảy bèo cứ trôi và đôi bờ cứ hun hút như không bao giờ có sự gặp gỡ và con người càng khát khao càng ăn nhằm.
“mênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng”.
Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìm sự kết nối gắn bó. Nhưng càng tìm càng chẳng thấy, hai câu thơ với hai lần phủ định “không đò”, “không cầu” dường như càng tô đậm hơn cái mông mênh của sông nước và nhấn mạnh thực trạng không có sự giao lưu gặp gỡ giữa người với người. phía 2 bờ sông lạnh, từ hoang dại như một bờ tiền sử hồn nhiên, như một nỗi niềm cổ tích tuyệt nhiên không hề có dấu hiệu của sự sống mà hiện diện ở đó chỉ có con người. Cái Tôi cô đơn của tác giả đang đối diện với cái vô cùng, vô tận, vô chung, vô thủy của không gian, thời gian nhìn đâu cũng chỉ thấy “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng”, để từ đó Huy Cận đối diện với lòng, bày tỏ những niềm tâm sự sâu kín về tình ái với quê hương đất nước.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê rờn rợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Cảnh sắc thiên nhiên ở khổ thơ này đẹp đẽ và kỳ vĩ đến lạ lùng, ở phía chân mây xa những đám mây trắng cứ đùn lên lớp lớp được ánh chiều phản chiếu lấp lánh như những hòn núi bạc khổng lồ. Cảnh tượng hùng vĩ ấy gợi ta liên tưởng tới bài “thu hứng” của Đỗ Phủ.
“Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmMặt đất mây đùn cửa ải xa”.
Trên cảnh trời mây sông nước mênh mang bỗng nhiên xuất hiện một cánh chim bé nhỏ lạc đàn. Cánh chim càng nhỏ bé cô đơn bóng chiều càng xa xuống, rớt xuống cảnh chiều càng buồn hơn. Phải chăng cánh chim bé nhỏ ấy chính là Tấm hình của nhà thơ khi “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước”, trước cảnh nước mất, nhà tan. Chỉ biết rằng trong khổ thơ thi sĩ như kẻ lữ thứ lạc &o một hoang đảo trơ tráo, cô đơn đến tuyệt đối. Hai chữ “rờn rợn” là từ láy diễn đạt sự sáng tạo của tác giả diễn tả tâm trạng nôn nao, day dứt của lòng người đang gợi lên như những cột sóng trong tâm hồn, đó là nỗi nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương. Đến đây nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ bộc bạch.
“Lòng quê rờn rợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Hơn 1000 năm trước, khi đứng trước nước non, mây trời nhà thơ thời hiệu ở Trung Quốc đã từng chạnh lòng.
“Nhật mộ hương quan hà xứ nhịYên ba giang thượng sử nhân sầu.
(quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho vừa lòng ai).
Người xưa nhìn thấy khói sóng trên sông mà nhớ tới quê hương, lấy khói sóng làm duyên cơ cho nỗi nhớ nhà. Còn Huy Cận nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong tâm, nên ông không cần phải lấy bất cứ khói nào để làm duyên cơ, ông nhớ nhà như để chạy trốn cái cô đơn mà đó ông gọi là lòng quê.
Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách cổ điển và hiện đại, kết hợp với thể thơ 7 chữ, cách ngắt nhịp gieo vần đăng đối tả cảnh ngụ tình “Tràng Giang” nói chung và hai khổ thơ cuối nói riêng thực sự là bức họa đồ thiên nhiên độc đáo, cùng với những tâm trạng, nỗi lòng rất khó để thổ lộ của nhà thơ.
Bài làm mẫu 3
Con người trước không gian bao la rộng luôn có cảm giác nhỏ bé, rợn ngợp. Đứng trước không gian ấy, con người thường có nhiều chiêm nghiệm suy ngẫm về cuộc đời để rồi nhận ra sao ta cô đơn quá. Đó cũng chính là nỗi niềm của Huy Cận khi đứng trước không gian trùng điệp mênh mang của Tràng giang. Sự cô đơn nhỏ bé ấy được biểu lộ rõ trong hai khổ cuối của bài thơ.
Bài thơ Tràng giang được viết &o mùa thu năm 1939 khi tác giả đang đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng. Nhìn cảnh sông nước bao la và suy nghĩ về kiếp người chính là nội dung của bài thơ. Đặc biệt ở hai khổ cuối dường như không chỉ đơn thuần tả cảnh mà trong đó ta còn phát giác tâm trạng của thi nhân.
Tràng giang không những là tác phẩm điển hình cho hồn thơ Huy Cận mà còn tiêu biểu cho thơ ca lãng mạn (đặc biệt là phong trào Thơ Mới) trong giai đoạn 1932-1945. Cảnh chiều trong Tràng giang có chiều kích của không gian cao rộng, có sông nước bao la và tất cả đều tiêu sơ, hoang vắng, chất chứa nỗi sầu nhân huệ thế thái…
Nếu ở hai khổ thơ đầu là khung cảnh thiên nhiên sông nước mông mênh ngợp trời:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêu”
Thì đến khổ thơ thứ hai khung cảnh và điểm nhìn đã được thu hẹp hơn. Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy rất rõ nỗi sầu buồn trong tâm hồn của thi nhân.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;mông mênh không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm nhiệt tình,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng.”
Không còn là trời rộng là sông lớn, từ cái nhìn khái quát đã trở thành cái nhìn cận cảnh. Bức Ảnh bèo quen thuộc xuất hiện. những cánh bèo nhỏ bé thường gọi sự nhỏ bé của kiếp người. Cánh bèo mong manh như chính kiếp người. Nếu cánh bèo không thể tự di chuyển mà bị dòng nước xô đẩy thì con người cũng thế. So với cuộc đời bao la mông mênh thì con người chỉ là những hạt cát nhỏ bé trôi nổi giữa dòng đời.
Trong câu thơ dường như thoáng chút bất lực bế tắc. Không chỉ một cánh bèo, một kiếp người mà “hàng nối hàng” nhiều kiếp người cũng đang lạc lõng bơ vơ giữa cuộc đời. Dường như không chỉ có Huy Cận cảm thấy cô đơn thấy lạc lõng ngay chính trên đất nước của mình mà là cả một tầng lớp thanh niên sinh ra trong thời loạn lạc của đất nước. Họ đều như những cánh bèo kia lênh đênh không biết sẽ đi về đâu chỉ đành phó mặc cho dòng đời xô đẩy
“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nướcBiết chọn một dòng hay để nước trôi.”
Huy Cận cũng cho nên chính do ông thấu hiểu cho cảnh ngộ của những người thanh niên giống ông. Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy chỉ một từ láy “mênh mang” nhưng cũng đã đủ diễn tả không gian rộng của đất trời. Không gian như được mở rộng ra vô biên. Và trong không gian mông mênh ấy chỉ có cánh bèo nhỏ bé lênh đênh, thật cô đơn và tuyệt vọng.
Sau khi vẽ ra không gian rộng ấy, nhà thơ đã đi đến một điệp khúc “không” độc đáo. Điệp từ “không” được lặp lại hai lần trong lời thơ – “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm đon đả”. Không có gì cả, không có người cũng chẳng có sự vật. Nỗi cô đơn cứ thế mà ngự trị khắp nơi len lỏi &o không gian xen lẫn &o tâm hồn nhà thơ. Đó cũng chính là điều đã làm nên cái điệu buồn miên man này.
Nhưng dường như không chỉ có cảnh vật cô đơn mà con người dường như cũng từ chối cả sự giao tiếp với thế giới bao quanh. Chính con người dường như cũng đang thu mình lại giữa sự cô đơn, khép lại tấm lòng của mình và từ chối giao tiếp với thế giới. Bến và đò vốn muôn đời nối liền nhau, nhắc đến bến là phải nghĩ đến đò nhưng trong câu thơ thì bến trống rỗng mà thuyền cũng chẳng đến. Bến đó nhưng nào có đợi mong thuyền hay một chuyến đò nào sang sông. Tất cả mọi sự vật đều từ chối sự kết nối.
Hai khổ thơ cuối bài Tràng giang ta thấy từ láy “lặng lẽ” đã nhấn mạnh thêm sự trống vắng tĩnh lặng đến đáng sợ nơi đây. Trong im vắng cũng chính là lúc người ta sống thật với lòng mình sống thật với những cảm xúc của mình. Nhưng trong im vắng người ta lại cảm thấy cô đơn nhiều hơn, để rồi cần tìm một nơi để nương tựa sẻ chia.
“Bờ xanh” tiếp “bãi &ng”, những gam màu đã khởi đầu xuất hiện. Nhưng có màu xanh tươi mát hay màu &ng ấm áp cũng không khiến cho bức họa đồ này tươi mới hơn mà ngược lại nó càng trở nên âm u tịch mịch. Những gam màu ấy chỉ càng khiến cho cảnh trở nên hiu hắt đìu hiu. Cảnh buồn thấm &o cảnh &o người hay chính nỗi buồn sự cô đơn của con người khiến cảnh vật cũng tối tăm như câu thơ của Nguyễn Du từng viết
“Cảnh nào cảnh chẳng đeoNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy con người đang cô đơn lạc lõng trong không gian minh mông, trong thời gian bao la vô thủy vô chung của đất trời…
Thật không sai khi bảo rằng thơ của Huy Cận có sự hòa quyện chặt chẽ giữa chất cổ điển và chất hiện nay. Điều ấy được biểu thị rõ ở khổ thơ cuối:
Xem Thêm : Joyboy – Khám phá người hùng kì lạ và thú vị trong One Piece
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang, ta thấy Bức Ảnh những đám mây chất chồng lên nhau được diễn tả thật hùng vĩ qua dòng phác họa “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Từ láy “lớp lớp” diễn tả khối lượng lớn, và dường như còn đang tiếp diễn. Sức sống ấy cứ dâng lên không sao kìm nén được. Sức sống ấy được diễn tả cô đọng qua từ “đùn”. Trong thơ văn, không ít nhà thơ đã dùng từ “đùn” để biểu đạt sức sống của cảnh vật như Đỗ Phủ từng viết
“Giang giang ba lãng kiêm thiên dũngTái thượng phong vân tiếp địa âm.’
(Thu hứng)
(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmMặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Hay Nguyễn Trãi cũng từng viết:
“Rồi hóng mát thuở ngày trườngHòe lục đùn đùn tán rợp giương”
(Cảnh ngày hè)
Huy Cận cũng sử dụng từ “đùn” ấy để diễn tả sự chất đống, chất dồn của đám mây. Những đám mây xếp chồng lên nhau tạo cho ta cảm giác như những núi bạc đã lơ lửng trên không. Bức Ảnh hiện ra thật hùng vĩ làm sao. Trong bức họa cổ thi ấy, nét động mở màn xuất hiện. Đầu tiên chính là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Bức Ảnh con chim cuối ngày thường gợi ra một cảm giác chán chường mệt mỏi như trong câu thơ của Bà huyện Thanh Quan.
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏiDặm liễu sương sa khách bước dồn”.
Hay trong câu thơ của Hồ Chí Minh
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụCô vân mạn mạn độ thiên không”.
Cánh chim của Huy Cận cũng thế chở đầy mệt mỏi lo âu và cả sự cô đơn rợn ngợp. Chú chim nhỏ bé cô đơn giữa bầu trời bát ngát. Cánh chim nếu so với bầu trời thật quá nhỏ bé cũng như con người với dòng đời này. Khi cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang, ta nhận ra cuộc đời này nếu so với dòng chảy vô tận của thời gian thì chẳng khác nào một hạt cát giữa sa mạc, một giọt nước giữa đại dương.
Nếu ở những dòng thời trên thời gian không xuất hiện cụ thể thì ở dòng thơ này thời gian đã được xác định “bóng chiều sa”. Giữa hai sự vật “chim nghiêng cánh nhỏ” và “bóng chiều sa” dường như không có sự kết nối, cho người đọc tự liên tưởng. vì thế ta có cảm nghĩ dường như cánh chim đang chở nặng bóng chiều hay chính cánh chim mỏi mệt đã kéo bóng chiều xuống. Nhưng dù hiểu theo cách nào ta vẫn thấy Tấm hình ấy hiện ra thật tráng lệ.
Nỗi buồn của người lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp. Từ điểm nhìn trên cao, Huy Cận đã di chuyển điểm nhìn xuống mặt nước quen thuộc
“Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Lòng quê chính là tình cảm dành cho quê hương đất nước. Hóa ra nhà thơ không chỉ ân cần đến bản thân mà ngầm trong đó là một ái tình nước thầm kín. Từ láy dợn dợn gọi tả sự chuyển động nhỏ nhưng diễn ra liên tục không ngừng như một sự ám ảnh. ái tình đối với quê hương cũng thế có đôi khi mạnh mẽ có khi khi lại ẩn khuất trong cuộc sống nhưng nó vẫn tồn tại mãi ở đó không khác đi. Không nhắc về nói nhưng các lần nhớ đến vẫn cảm thấy đau nói. Dùng sự vật biểu trưng để nhớ đến quê hương không phải là điều xa lạ. Như Lí Bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương:
“Cử đầu vọng minh nguyệtĐê đầu tư cố hương”
Hay Thôi Hiệu cũng từng:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu.”
Nhưng nếu các thi nhân xưa cần vật để gợi nhớ quê hương thì Huy Cận đang ở trên quê hương mà vẫn nhớ về quê hương. Tại sao một con người đang đứng trên đất nước mình mà lại đi nhớ về quê hương? Bởi lẽ quê hương ta đang bị quân giặc giày xéo, đây không phải là quê hương đúng nghĩa, nên dù đang đứng ngay trên quê hương mình nhưng ông vẫn thấy cô đơn, thấy bơ vơ như những con người xa quê…
Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang nói riêng cũng như toàn bộ tác phẩm nói chung sẽ thấy bài thơ chính là một nỗi buồn cô đơn dài vô tận. Nỗi buồn ấy không chỉ đến từ vạn vật mà còn đến từ chính tâm trạng thi nhân. Đó là tâm trạng của một người không có được tự do trên chính đất nước mình. Giọng thơ đượm buồn kết hợp với những hình ảnh mênh mông của không gian đã cho thấy được sự cô đơn nhỏ bé của kiếp người trước sự trôi nổi của dòng đời.
Phân tích bài thơ Tràng giang nói chung cũng như hai khổ thơ cuối nói riêng sẽ thấy tác phẩm là đại diện tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Huy Cận. Một cái buồn ảo não, một nỗi sầu nhân thế ngấm xuyên &o cảnh vật và &o cả lòng người. Bởi thế mà nhà thơ Lê Duy đã từng viết:
“Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước,Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn…”
Bài làm mẫu 4
Trong số các nhà thơ mới trước cách mệnh, Huy Cận là một nhà thơ có chất thơ ảo não nhất. Thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “Tràng Giang” là một bài thơ gắn liền với tên tuổi của Huy Cận với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm thương nhớ ấy càng được thấy rõ trong phần phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng giang dưới đây:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;mênh mang không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm đon đả,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Trước mắt người đọc hiện lên một khung cảnh hắt hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;mênh mang không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm niềm nở,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng.
Từng đám bèo cứ lặng lẽ nối tiếp nhau trôi theo dòng nước mà không biết trôi về đâu, tựa như dòng đời bơ vơ, vô định, cảm thấy mình bất lực và nhỏ bé. Ở đây có sự đối lập giữa những thứ đang có và những thứ không có. Chỉ có dòng nước mông mênh với những cánh bèo nối tiếp nhau trôi trong vô định, không có lấy một cây cầu dù chênh vênh, không có lấy một con đò dù nhỏ bé. 2 bờ sông mà như hai thế giới, không có một chút liên hệ nào, dù gần mà cũng thành bóng gió không thể với tới. Hai bên bờ chạy song song, cùng “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng”, ko chút đon đả, không chút giao hòa nào cả. Khung cảnh thiên nhiên ấy, cũng như tâm trạng của nhà thơ vậy. Giữa trời đất mênh mang nhưng không tìm được những tâm hồn đồng điệu với mình, không ai có thể hiểu mình. Nỗi cô đơn cứ thế chồng chất chất chồng, làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên, càng khao khát hơn sự đồng cảm, yêu thương.
Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn nữa:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng lên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả khung trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất minh mông, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.
Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, bao trùm trong khắp cả không gian:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tầm mắt trở lại trên dòng nước. Từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn nhưng cũng tồn tại rất lâu, phủ rộng rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn,
Người xưa nhìn khói sóng trên dòng sông khi chiều tà mà cảm thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận không cần thấy khói hoàng hôn nhưng trong lòng vẫn dâng lên một nỗi nhớ quê hương da diết. Đó như một thứ tình cảm thường trực vẫn luôn chất chứa trong lòng người con xa quê, mà không cần một liên quan nào từ phía bên ngoài, vẫn thấy nhớ quê, thương quê.
Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng giang càng thấy rõ hơn bức họa đồ quê hương đẹp đẽ, nên thơ với những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như bờ sông, cánh bèo, củi khô, áng mây. Đó là tình ái quê hương đất nước sâu nặng, đã thấm &o từng con chữ. Đồng thời trong đó cũng diễn tả khát khao tìm được sự đồng điệu trong thế giới mênh mang của một tâm hồn thi sĩ luôn băn khoăn một “nỗi sầu nhân thế”.
Phân tích 2 khổ cuối Tràng giang
Bài làm mẫu 1
Nhà thơ Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng với làng thơ mới, mỗi tác phẩm của ông đều gửi gắm những tâm trạng, nỗi buồn chán, sầu muộn của mình trong đó.
Bài thơ Tràng Giang là một bài thơ tiêu biểu gắn liền với Huy Cận, diễn đạt nỗi buồn của tác giả trước nhân nghĩa thế thái, trước nỗi buồn nhân thế. thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước của tác giả.
Đặc biệt là hai khổ thơ cuối diễn tả rõ nét tâm trạng phiền não, sầu muộn của tác giả Huy Cận với những nỗi sầu nhân thế.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng”
Hình ảnh từng cụm bèo lững lờ trôi trên sông vô định không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu, trong bối cảnh không gian mông mênh sông nước trời biển minh mông, thời gian là cảnh chiều tà, nhìn những đám bèo trôi vô định, không có phương hướng khiến cho tác giả cảm thấy nôn nao buồn. Một nỗi buồn nhân thế không biết thổ lộ cùng ai, chỉ có thể gửi gắm &o những câu thơ của riêng mình.
Trong câu thơ “mênh mang” hai từ láy này gợi lên cho người đọc sự sầu muộn mông mênh, trước cảnh sông chiều nhưng không có một con đò nhỏ để qua sông, càng làm cho lòng người thêm man mác.
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa không gian và con người bé nhỏ, không gian càng mênh mang thì con người càng cảm thấy mình thật cô đơn bé nhỏ, lạc lõng biết bao lăm.
Khung cảnh thiên nhiên biểu lộ như tâm trạng của nhà thơ Huy Cận lúc bấy giờ đều gợi lên tâm trạng buồn. Giữa đất trời sông nước mênh mang không tìm được một người bạn tâm giao tri kỷ, không ai có thể hiểu nỗi lòng của tác giả, làm cho nỗi cô đơn cứ thế mà xô sóng ở trong lòng, con người cảm thấy mình thật bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện nay.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”
Cánh chim chiều nghiêng bóng trước hoàng hôn, một cánh chim nhỏ nhoi trơ khấc trên bầu trời mênh mông rộng lớn, trình bày sự cô liêu khắc khoải. Cánh chim chiều chao nghiêng kia phải chăng chính là hiện thân của tác giả bây giờ, đang cảm thấy trào dâng nghiêng ngả những cơn sóng lòng. Đang cảm thấy mình chơ vơ, cô đơn trước cuộc đời mênh mông cao lớn.
Thiên nhiên trong khổ thơ này gợi lên cho người đọc cảm giác buồn thê lương, não lòng, đúng như câu thơ của Nguyễn Du viết trong tác phẩm Truyện Kiều rằng: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” để biểu lộ sự cô đơn, chơ vơ buồn bực của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời.
Tác giả Huy Cận đã vô cùng tinh tế khi đặt cánh chim đối lập cô đơn với không gian cao lớn cao lớn, bát ngát của đất trời, vũ trụ.
“Lòng quê rờn rợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Trong hai câu thơ này biểu thị tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương của tác giả Huy Cận. Người xưa thường nhìn khói lam chiều gợi lên cảnh nhớ nhà, nhớ mùi khói bếp thơm ngai ngái để hướng tới quê hương, gia đình, hướng tới người thân thương nhất của mình.
Nhưng Huy Cận viết “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” mô tả nỗi nhớ của ông là nỗi nhớ thường trực, nó luôn chứa đựng in sâu trong lòng tác giả, không cần phải có chất xúc tác là khói lam chiều mới nhớ.
Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ vô cùng hay diễn tả bức tranh quê hương trong cảnh hoàng hôn vô cùng tươi đẹp, sinh động, với hình ảnh thân thuộc như cánh chim, mây trời, sông nước, rồi những cánh bèo trôi.
Phân tích hai khổ cuối bài Tràng giang xong, chúng ta có thể thấy tất cả đều gợi lên một bức tranh chiều tà vô cùng tinh tế, tươi đẹp nhưng trình bày một nỗi sầu nhân thế vô cùng sâu sắc trong lòng tác giả.
tìm hiểu thêm: Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang của Huy Cận
…………
Tải file tài liệu để xem thêm phân tích 2 khổ cuối Tràng giang
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp