Nội dung chính
Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Phân tích Tràng giang của Huy Cận (21 mẫu) – Văn 11 – Download.vn. Bài viết phan tich bai trang giang tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
- Nguồn gốc dòng họ Vũ nổi danh nhờ khoa bảng – Trí Thức VN
- +2 Cách lấy lại sim Viettel bị thu hồi về kho số nhanh chóng, dễ
- [Kho] 777+ Hình Ảnh Hoa Sen Trắng Đám Tang Đẹp, Xúc Động
- Các dạng toán tổng tỉ? Phương phdẫn giải bài toán tổng tỉ lớp 4?
- Biệt danh hay cho con gái “cute phô mai que” ai nghe cũng tan chảy!
Cảm nhận Tràng giang gồm 8 mẫu là tài liệu nhằm giúp cho các em lớp 11 tự học 1 cách thuận lợi, đặc biệt là trong việc chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp. Từ đó đạt được kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi giữa học kì 2 Ngữ văn 11 sắp tới.
Bạn Đang Xem: Phân tích Tràng giang của Huy Cận (21 mẫu) – Văn 11 – Download.vn
Bài Tràng giang đã biểu thị nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên bao la, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm thực bụng với quê hương đất nước của nhà thơ. Để hiểu rõ hơn về nội dung mà Huy Cận muốn gửi đến, mời Anh chị em cùng theo dõi 8 bài văn mẫu dưới đây. Bên cạnh đó Cả nhà tham khảo thêm bài văn mẫu phân tích Tràng giang, kết bài Tràng giang.
Dàn ý cảm nhận bài thơ Tràng Giang
I. Mở bài
1, Tác giả:
– Là một trong những trụ cột của phong trào thơ mới
– Tràng Giang trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)
2. Nội dung phân tích: bài thơ là nỗi lòng của một cá thể cô đơn trước vũ trụ vô tận, trước dòng đời bát ngát rãi
II, Thân bài:
1, khái quát:
a, hoàn cảnh sáng tác: Trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)
– Cảm hứng sáng tác: Cảm hứng từ một buổi chiều mùa thu, khi tác giả một mình đứng ở bờ Nam bến Chèm, nhìn cảnh sông Hồng bát ngát rãi sóng nước
b, Nhan đề:
- Phép điệp âm “ang” gợi Bức Ảnh con sông lớn, bát ngát mênh mang
- Là một từ Hán Việt cổ nên gợi Bức Ảnh con sông cổ kính, lâu đời.
c, Lời đề từ:
- Thâu tóm nội dung của cả bài thơ
- Các Bức Ảnh “trời bát ngát”, “sông dài” gợi những phạm vi, không gian khác nhau
- Cảm xúc của nhà thơ: nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác
=>Vừa có tác dụng định hướng, vừa tạo tính cổ điển, hiện đại
2, Phân tích:
a, Khổ 1: “Tràng giang” mở ra bằng Bức Ảnh dòng sông mang nỗi sầu nhân thế (Trích 4 câu thơ)
– Câu 1:
- Gợi sự vận động hết sức nhỏ bé, nhẹ nhàng của sóng
- Từ láy “điệp điệp” khiến nỗi buồn trở nên cụ thể, chồng chất lên nhau
- Trên dòng tràng giang bao la rãi rãi, nổi bật Bức Ảnh một con thuyền bơ vơ, trôi vô định
- Cụm từ “thuyền về nước lại” đọc lên nghe như có gì đó biệt li đôi ngả.
- Cụm từ “sầu trăm ngả”: nỗi sầu vô hướng, tỏa mênh mông khắp không gian
– Câu 4:
- Bức Ảnh “củi một cành khô” gợi cái cô đơn, nhỏ bé, phù du. Số từ “một” gợi sự ít ỏi, “cành khô” gợi sự khô héo, “lạc” mang nỗi sầu vô định, vô hướng
=>Những cảm nhận tinh tế trước thiên nhiên sông nước, qua đó bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của nhà thơ
b, Khổ 2: Huy Cận như vẽ thêm cảnh qua một cái nhìn bao quát hơn (trích 4 câu thơ)
– Câu 1,2:
- Từ láy “lơ thơ” với biện pháp đảo ngữ: nhấn mạnh cái trống trải, thưa thớt của cảnh vật trên cồn cát
- Từ láy “đìu hiu”: tác giả học được từ câu thơ trong bài “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm) -> làm sống lại không khí trống trải, thê lương của thơ xưa
- Từ “đâu” có thể hiểu là đâu có hoặc đâu đó. Nhưng hiểu theo cách nào thì âm thanh nhỏ nhoi-biểu tượng cho dấu vết con người cũng quá mỏng manh, mờ nhạt
– Câu 3,4
- Huy Cận đã diễn đạt được sự vận động, mở mênh mông về mọi hướng của không gian
- Cụm từ “sâu chót vót” khiến không gian được mở bát ngát theo 3 chiều: dài, bát ngát, cao
=>Đó là cảm giác nhớ nhà, bơ vơ, lạc lõng giữa thiên nhiên, giữa trời mênh mông, sông dài
c, Khổ 3: Nỗi buồn của cảnh vật gắn với nỗi sầu nhân thế (trích thơ)
– Câu 1,2
- Bức Ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi sự bấp bênh, trôi nổi của những kiếp người vô định
- Bức Ảnh “bờ xanh tiếp bãi &ng”: thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, không có bóng hình của con người
– Câu 3,4
+ cấu tạo phủ định “không….. không” phủ nhận hoàn toàn những kết nối của con người
=>Trước mắt nhà thơ thời điểm lúc bấy giờ không có chút gì gợi niềm đon đả để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn lan tỏa
d, Khổ 4: Nỗi cô đơn được mở lên chiều cao với những Bức Ảnh đối lập (trích thơ)
– Câu 1,2
- bút pháp chấm phá: mở ra Bức Ảnh những núi mây trắng được ánh nắng chiếu &o như dát Bội bội nghĩa Tình Tình Bẽo Tình Bẽo
- Câu thơ thứ 2 có thể hiểu theo 2 nghĩa: chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều sa xuống tràng giang hay chính bóng chiều đè nặng lên cánh chim làm cánh chim nghiêng lệch
– Câu 3,4:
- Từ láy “dợn dợn”: biểu đạt nỗi niềm cô đơn, bâng khuâng
- 2 chữ “nhớ nhà”: gợi Hình ảnh một người lữ thứ xa nhà trơ thổ địa, dừng bước bên bờ tràng giang
- Huy Cận không cần nhìn khói hoàng hôn cũng nhớ nhà bởi nỗi nhớ ấy không phụ thuộc &o ngoại cảnh mà xuất phát từ tâm can
=>Nét tâm trạng chung của các nhà thơ mới lúc bấy giờ
3, Đánh giá:
a, Nghệ thuật:
- Sử dụng những chất liệu, thi liệu gần gũi với đời sống
- Bút pháp chấm phá, lấy cảnh để nói tâm trạng được sử dụng biến hóa linh động
- Tiếp thu và làm mới thơ cổ điển
b, Nội dung:
- Nỗi buồn, nỗi cô đơn của tác giả khi đứng trước quê hương nhưng quê hương đã không còn
- Mong muốn tìm kiếm hơi ấm của con người nhưng cái nhận lại chỉ là thuyệt vọng cùng cô đơn
- Bộc lộ bí mật lòng yêu nước sâu đậm
III, Kết bài:
- Tổng kết lại vấn đề
- Nêu cảm nhận của bản thân
Cảm nhận Tràng giang học sinh giỏi – Mẫu 1
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào Thơ mới, thơ Huy Cận bật lên trong phong trào Thơ Mới với nỗi buồn bát ngát, khắc khoải, đó là nỗi sầu của một cái tôi giàu ý thức, giàu suy tư về cuộc đời và con người. “Tràng giang” (trích trong tập thơ “Lửa thiêng”) là bài thơ tiêu biểu, diễn đạt rõ nhất phong cách thơ của Huy Cận, trong mỗi khổ thơ đều chất chứa nỗi buồn da diết. Đặt cái nhỏ bé của con người trước thiên nhiên mênh mang, Huy Cận đã thành công khơi dậy nỗi cô đơn, cảm giác chơi vơi, lạc lõng của con người giữa dòng đời bao la.
mở đầu bài thơ là những câu thơ đậm phong cách cổ điển giàu Bức Ảnh và giàu nhạc điệu, chính những từ láy và cách gieo vần đã tạo nên âm điệu cho cả khổ thơ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng”
“Tràng giang” ở đây không chỉ nói đến một con sông dài mà còn bát ngát rãi, những con sóng trên sông được miêu tả rất thật, sống động với từng gợn sóng, đọc câu thơ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” ta cảm nhận được sức gợi rất mãnh liệt, từng con sóng giống như những nỗi buồn của thi nhân, nỗi buồn ấy cứ dài mênh mông, triền miên theo cả không gian và thời gian. Bức Ảnh con thuyền xuôi mái chèo, mặc cho sức nước đẩy đưa gợi sự lênh đênh, phó mặc số phận cuộc đời, cũng bởi con thuyền so với dòng sông là quá nhỏ bé, dòng nước “song song”, “thuyền về nước lại” chẳng hứa hẹn sự giao thoa, phát giác gỡ gỡ gỡ gỡ gỡ lại mang nặng nỗi buồn biệt li, xa cách. Ta cảm nhận được sự mới mẻ hiện đại trong “Tràng giang” bởi nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ bé, vô nghĩa như “củi một cành khô”, đã là củi nhưng cũng chỉ có một cành mà lại còn là củi khô, hết sức tầm thường, bé nhỏ. Bức Ảnh một cành củi khô lạc trôi bập bềnh trên dòng nước mênh mang minh mông gợi lên nỗi buồn về một kiếp người nhỏ bé, tầm thường. Nỗi buồn càng thấm sâu hơn &o cảnh vật khi cảnh càng hoang tàn, quạnh hiu đến nao lòng:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời bát ngát rãi, bến cô liêu.”
Cặp từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” cùng gợi lên sự buồn bã, quạnh hiu, cô đơn, không gian bao quanh đều vắng vẻ, lại thêm tiếng vãn chợ chiều đằng xa, chợ chiều ngày xưa vốn đã thưa thớt, vắng vẻ, không có được cái nhộn nhịp tấp nập như chợ sáng, ngay cả tiếng chợ chiều đằng xa cũng không còn nữa, âm thanh cuộc sống của con người văng vẳng nhạt nhòa. Hai câu thơ sau gợi ra một không gian cao sâu, dài bát ngát rãi rãi mênh mang “sâu chót vót”, chiều cao dường như vô tận, “sông dài, trời mênh mông”, nhưng đứng giữa cái bát ngát bao la, bao la rãi rãi rãi dài vô tận của vũ trụ đó lại chỉ có “bến cô liêu”, ta cảm nhận được sự cô liêu không chỉ của bến đò mà còn là sự cô liêu trong lòng người, con người nhỏ bé như bị choáng ngợp, lạc lõng giữa đất trời bát ngát.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng”
Tiếp nối mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ thơ đầu, đến đây nỗi buồn vẫn được khắc sâu &o Bức Ảnh bèo dạt lênh đênh, lênh đênh vô định lại thêm sự chia ly tan tác, trời mênh mông rãi bao la nhưng tuyệt nhiên không có bóng vía con người “không một chuyến đò ngang”, cũng không có nổi một cây cầu để gắn kết, tạo sự gần gũi với con người. Chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên “bờ xanh” với “bãi &ng” nối tiếp nhau, có thể nói, nỗi buồn của tác giả không dừng lại ở nỗi buồn trước trời mênh mông sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, cuộc đời.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Khung cảnh trời thu với những đám mây trắng đùn lên phía cuối trời, ánh mặt trời phản chiếu lên những đám mây đó biến chúng thành những ngọn núi màu Bội bội nghĩa đãi trắng xóa, gợi cảnh thiên nhiên thật kỳ vĩ, tráng lệ. Thế nhưng xen giữa cái tráng lệ ấy vẫn là nỗi buồn, là Hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng mình, con chim bé nhỏ đơn côi lẻ bóng trong buổi chiều tà gợi nỗi niềm xa vắng nhớ thương, cảnh thiên nhiên càng hùng vĩ, rợn ngợp bao lăm thì nỗi buồn càng sâu lắng và khắc khoải hơn. Nỗi nhớ quê hương dợn dợn theo từng con nước lên xuống, không thể ngừng, không thể nguôi ngoai, nỗi nhớ nhà cũng theo đó mà càng da diết, không cần khói hoàng hôn, không cần ảnh hưởng ngoại cảnh cũng đủ làm cho sự nhớ nhung tràn ngập tâm hồn. Nhà thơ khát khao,được trở về quê hương, tìm một bến đỗ cho tâm hồn, tìm nơi sẻ chia sự cô đơn, trống vắng.
Như vậy, xuyên suốt bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận là cả nỗi buồn cứ triền miên, vô tận, đó là cái buồn của một “cái tôi” đang cô đơn trống trải giữa thiên nhiên bao la bao la rãi. Bài thơ mới chấm phá nét cổ điển đã khắc họa rõ nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ, đồng thời là tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước.
Cảm nhận Tràng giang của Huy Cận – Mẫu 2
Huy Cận là nhà thơ của từ thiên nhiên, cuộc sống và con người. Ông thường viết các vần thơ ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống lao động, của tinh thần hăng say đóng góp cho xã hội. Ta thấy được nét khoẻ khoắn, vui tươi trong những sáng tác của ông như: Đoàn thuyền đánh cá, Bài ca cuộc đời,……. Nhưng Huy Cận cũng có những lúc cô đơn, buồn bã nơi đất khách quê người – điều ít khi ta thấy trong các tác phẩm của nhà thơ này. Nỗi nhớ quê, nhớ mẹ cùng tâm trạng cô độc, buồn bã được nhà thơ biểu hiện trong bài thơ Tràng giang, được viết năm 1939. Trước cảnh sông nước bát ngát, mênh mang, nhà thơ thấy mình bé nhỏ và đơn độc, điều đó gợi dậy nỗi nhớ quê hương da diết.
Xem Thêm : Theo thuyết areniut kết luận nào sau đây là đúng? – ACIC.com.vn
Ta cảm nhận được một tâm trạng đượm buồn của tác giả ẩn sau bức họa thiên nhiên ở khổ thơ đầu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song.Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng”.
Các từ láy “song song”, “điệp điệp” gợi nên một không gian sông nước mênh mang, bao la và ảm đạm. Trong không gian ảm đạm đó chỉ có duy nhất một hình bóng con thuyền, nhưng con thuyền nào cũng chơi vơi, vô định và bỏ mặc cho dòng nước cuốn trôi theo cũng hệt như tâm trạng của nhà thơ hiện giờ. Những sự vật cũng chuyển động 1 cách im lặng, như thể đang bất lực và tuyệt vọng trước cuộc sống. Hình ảnh “Thuyền về nước lại” nghe sao mà đau xót quá! Thuyền và nước vốn dĩ là hai sự vật song hành với nhau, thuyền không có nước mới trôi đi, nước nhờ có thuyền mà về, ấy thế nhưng ở đây Huy Cận đã biểu hiện sự chia cắt của thuyền và nước, sự chia cắt này gợi một nỗi sầu “trăm ngả”….. Không có gì có thể đau hơn nữa. Câu thơ cuối cùng của khổ thơ thứ nhất là hình tượng thơ đặc biệt với hai vế: “Chỉ một cành khô – không nhiều dòng”. Lượng chữ “một” diễn tả sự cô đơn, chỉ độc một cành củi khô, cũng gần như chỉ có duy nhất một con thuyền. Tâm trạng buồn bã của nhà thơ được đẩy lên cao trào, khi bao quanh các sự vật cũng chỉ cô đơn, vắng bóng không biết nhìn về đâu. Nghệ thuật tả cảnh vô tình vừa cho ra cái đẹp của thiên nhiên, vừa bộc lộ được sự có hồn, là tâm trạng đau buồn của thi nhân.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục diễn tả nỗi cô đơn của tác giả, nhưng có một chút gì đó rõ ràng hơn:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Nếu như ở khổ thơ đầu, ta chỉ thấy những Bức Ảnh của thiên nhiên thì đến những câu thơ này đã xuất hiện hình bóng của con người. Nhưng con người cũng xuất hiện trong trạng thái thật chán nản, đó là tiếng vãn chợ chiều ở phía xa xa. Một ngôi làng thời gian gần đây đang bắt đầu dọn dẹp cho phiên chợ cả ngày của mình, chỉ còn lại những tiếng chào tạm biệt, âm thanh vãn chợ văng vẳng đâu đấy. Những tưởng sự xuất hiện của con người sẽ làm cho bức họa bớt ảm đạm hơn nhưng không, chúng lại khiến cho tác giả cảm nhận sâu sắc được cảnh ngộ của mình, chợ đã không còn tươi vui, tấp nập như buổi sớm mai, cũng như tâm trạng không còn vui vẻ, hào hứng của nhà thơ Huy Cận. Hai câu thơ sau miêu tả thiên nhiên cực độc đáo:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,Sông dài, trời bát ngát rãi, bến cô liêu.”
Bức Ảnh đối lập: “Nắng xuống – trời lên” biểu lộ sự buông thả của cuộc đời. Ánh nắng rực rỡ đã nhường chỗ cho một màn đêm sắp buông xuống. Cụm từ “sâu chót vót” là Hình ảnh cực kì độc đáo, bởi lẽ “chót vót” vốn là một từ để miêu tả độ cao nhưng ở đây lại được dùng để miêu tả độ sâu, cùng với câu thơ sau tạo nên một bức họa vô cùng mênh mang mà trong đó là sự tồn tại nhỏ bé của tác giả. Khổ thơ tiếp theo vẫn là một sự buồn thương, mờ mịt trong bức họa thiên nhiên buổi chiều tà:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,bao la không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm niềm nở,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng.”
Nhà thơ tiếp tục sử dụng Hình ảnh “bèo” trôi, cũng như con thuyền và cành củi khô ở đoạn đầu, là những số phận lênh đênh, trôi nổi không biết dạt về đâu. Khung cảnh bên bến sông chơ vơ, không có một chuyến đò để đưa khách, không có một cái cầu bắc nhịp, chỉ có một bờ bãi bao la bát ngát. Cả một bức họa đồ hiện thực đượm buồn mà nỗi cô đơn của tác giả như đang muốn thoát ra khỏi đó, để có 1 cuộc sống tươi đẹp hơn, tươi vui hơn.
Khổ thơ cuối là nỗi nhớ nhà của tác giả:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Cách miêu tả thiên nhiên của Huy Cận đã gợi ra trước mắt người đọc một bức họa đồ với những đám mây cứ tầng tầng, lớp lớp hiện ra trên các đỉnh núi cao chót vót, cùng với đó là Bức Ảnh con chim nhỏ bay trong bóng chiều tìm đến tổ để về sum họp với cha mẹ. Có lẽ khi gặp những Bức Ảnh đó ở các câu thơ đầu, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn ẩn sâu trong lòng người nhưng phải đến lúc trông thấy Bức Ảnh cánh chim thì Huy Cận mới bộc lộ rõ nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương đất nước. Ta thấy được tình cảm yêu thương, gần gũi của nhà thơ với nhân dân, với quê hương, đất nước. Dù có đang sống nơi nào thì trong lòng của một người con xa xứ cũng vẫn khắc khoải nhớ đến từng bóng hình của những người thân thương.
Tràng là dài, giang là sông, tràng giang là sông dài, cũng là một nỗi buồn kéo dài vô tận của nhà thơ. Huy Cận đã lồng ghép tâm trạng của mình &o từng cảnh vật trong bài thơ, qua đó bộc lộ nỗi buồn thương và nỗi nhớ nhà tha thiết. Đọc bài thơ, ta thấy thêm được một khía cạnh khác trong thơ Huy Cận, rằng ông không chỉ viết hay, viết sâu sắc về sự hồ hởi, tươi vui mà còn viết rất nhằm nhò, cảm động khi nói về nỗi buồn. Như vậy, xuyên suốt bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận là cả nỗi buồn cứ triền miên, vô tận, đó là cái buồn của một “cái tôi” đang cô đơn trống trải giữa thiên nhiên mênh minh mông mang. Bài thơ mới chấm phá nét cổ điển đã khắc họa rõ nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ, đồng thời là tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước.
Cảm nhận bài thơ Tràng Giang – Mẫu 3
Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn miêu tả sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tác giả, biểu thị đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.
Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng
Đứng trước cảnh minh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu Bức Ảnh để bao quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn diễn tả tâm trạng của mình. Bức Ảnh “sóng gợn” gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nỗi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và mênh mông rãi càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những Bức Ảnh hết sức đời thường để đưa &o thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời bao la rãi bến cô liêu
Lại một lần nữa tác giả đã dùng những Bức Ảnh “cồn, gió, làng, chợ, bến” để bày tỏ tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vật trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.
Nắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài, trời bao la bến cô liêu
Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mang sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng
Hình ảnh mặt nước cánh bèo mặt nước mặt nước gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã miêu tả niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Sau khi ngắm hết những cảnh vật bao quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy Hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ “đùn” cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu &o tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là “núi bạc”. Bức Ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nỗi buồn của ông, giống như nỗi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có Bức Ảnh cánh chim.
Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả đã dùng từ láy “dợn dợn” để diễn tả những con sóng vời theo con nước bao phủ ra tích tắc cho thấy nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng bao phủ ra khắp nơi.
Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên bao la, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của vhọc biện pháp hành độngệt Nam.
Cảm nhận bài thơ Tràng Giang – Mẫu 4
Huy Cận là một nhà thơ gắn liền với phong trào thi ca cách mạng Việt Nam. Trước cách mạng tháng tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca… Nhưng sau cách mạng tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ yếu hướng tới cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phẩm không thể không kể đến đó là tác phẩm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn ảm đạm, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng đời vô định.
Với nhan đề “ Tràng Giang” có nghĩa là “ sông dài” đã gợi cho người đọc một không gian mênh mang, không bến bờ. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc thái cổ điển trang nhã, lại vừa gợi liên tưởng cho người đọc về dòng “Trường giang” trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, nhưng ẩn chứa sau cái bát ngát đó lại là nỗi ưu tư, nỗi buồn của một kiếp người nhỏ bé giữa cái vũ trụ mênh mang, mênh mang.
Tiếp đến là câu đề từ chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: “Bâng khuâng trời bát ngát rãi nhớ sống dài”. Đứng trước cảnh “trời bát ngát”, “sông dài” lại khiến cho lòng người dấy lên tình cảm “bâng khuâng” và nhớ. Từ láy “bâng khuâng” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã gặp gỡ những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song.Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng”
Với bốn câu thơ đầu tiên bắt đầu cho bài thơ đã hiện lên rõ mồn một được không gian thiên nhiên mênh mang và sự buồn ảm đạm. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ tạo thêm cho người đọc có được không gian bao la, mênh mang và mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Sóng thường rất dữ dội, nhưng trong thơ của Huy Cận thì “ sóng gợn” tạo cảm giác cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn kết hợp với “ điệp điệp” càng làm cho người đọc thấy được nỗi buồn đó vô cùng lớn, cứ nối tiếp nhau mãi không hết. Hình ảnh con thuyền ở đây cũng chính là một bức ảnh ẩn dụ cho con người, sự dịch chuyển lặng lẽ, “ song song” giống như thân phận của mỗi người luôn luôn trôi nổi giữa dòng không biết đi đâu về đâu. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.”
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thế mà tác giả lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách “thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nỗi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bồng trên “mấy dòng” nước thiên nhiên bao la mênh mang. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, bức ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bằng những ngôn từ những hình tượng hết sức gần gũi với cuộc sống của mọi người, làm cho người đọc thấu hiểu và cảm nhận được không gian minh mông bao la, và nỗi buồn vô định trong lòng người ẩn chứa trong bức họa thiên nhiên hùng vĩ.
Và nỗi lòng đó dần dần được mở ra, đưa người đọc dần dần khám phá tìm hiểu
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Giữa khung cảnh “lơ thơ”, “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, cùng với sự ít ỏi cô độc khiến cho con người trở nên đơn côi, rợn ngợp đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Khi nhắc đến khung cảnh chợ, mọi người thường gợi nhớ đến sự nhộn nhịp tấp nập người buôn người bán, nhưng ở đây Huy Cận lại lựa chọn khung cảnh là chợ chiều, khiến cho mọi người thấy được sự yên lặng, vắng vẻ.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,Sông dài, trời bát ngát, bến cô liêu.”
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, nhưng vẫn gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại bị tách bạch khỏi nhau. Tấm hình “sâu chót vót” là cảnh biểu lộ mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đồng thời, điều đó cho thấy nỗi buồn của nhà văn không chỉ dừng lại ở thiên nhiên bao quanh mà còn gửi lên đến tận trời cao. Bức Ảnh “ sông dài”, “ trời rộng”, “ bến cô liêu” cho thấy được không gian minh mông của cao lớn, và sự cô đơn bơ vơ của sự vật trước cái cảnh tượng minh mông đó. Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã khiến cho người đọc không chỉ thấy nỗi buồn của cảnh vật bao quanh mà nó còn là cảnh vật của lòng người. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh bao quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm &o giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những Tấm hình càng quạnh quẽ, đìu hiu.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,mông mênh không một chuyến đò ngang.Không cần gợi chút niềm niềm nở,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng.”
Hình ảnh cánh bèo trôi bập bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng” chứng tỏ rằng không có một số từ nào có thể miêu tả hết được những số phận cô đơn lạc lõng trong cuộc sống
“bát ngát không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm nhiệt tình.”
Tác giả đưa ra kết cấu phủ định. “…không…không” để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ thời điểm hiện giờ không có chút gì gợi niềm quan tâm để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang che phủ, vây kín, chỉ có một thiên nhiên rộng, bát ngát. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Tiếp đến tác giả lại khéo léo sử dụng những hình tượng mẫu trong thi ca cổ điển để diễn tả nỗi lòng
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”
Xem Thêm : Dùm hay giùm, từ nào là từ đúng chính tả tiếng Việt? – Thủ thuật
Hình ảnh thơ là những nét chấm phá của thiên nhiên vừa mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường. Huy Cận đã áp dụng rất tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn đùn ra mãi. Hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Như vậy, bằng những nét chấm phá tả cảnh thiên nhiên bằng những biện pháp so sánh, tu từ độc đáo đã làm lên không gian bát ngát cao lớn của thiên nhiên cùng với nỗi buồn sâu thẳm cho những kiếp người. Nhưng giữa thiên nhiên và còn người trong thơ Huy Cận lại rất hòa hợp và đan quyện &o nhau làm tan chảy trái tim của người đọc. Điều này, cho thấy được rằng sự tài tình qua cách dùng từ, sự cảm nhận của thiên nhiên bằng đôi mắt rất tinh tế, sự bày tỏ lòng mình một cách chân thực đã đem đến cho người đọc một tâm trạng hết sức đồng cảm. Qua đó, nhà thơ Huy Cận còn bày tỏ tình ái quê hương đất nước con người của chính bản thân ông.
Cảm nhận bài thơ Tràng Giang – Mẫu 5
Có những tác phẩm văn học vừa đọc xong, gấp lại là ta sẽ quên ngay, nhưng cũng có không ít những bài văn bài thơ, thật diệu kì, đã đi sâu &o lòng ta bằng một sức hút vô cùng mãnh liệt. Tràng giang của Huy Cận là một tác phẩm như vậy! Đọc Tràng giang, ta cảm thấy từng lời thơ, từng âm điệu… như những dòng chảy của một con sông, cứ len lỏi nhẹ nhàng nhưng chảy sâu &o tận đáy tâm hồn, khắc chạm &o đó những ấn tượng thâm trầm mà sâu sắc!…
“Thơ Huy Cận thường buồn”, Xuân Diệu, người bạn tri kỉ và cũng chính là người bạn đời tri kỷ thân thiết của Huy Cận cũng đã phải thốt lên như vậy! Là hai người bạn thân thiết của nhau, là hai người thi sĩ đa tình cùng yêu mến và tìm đến với thế giới thiên nhiên vô tận, nhưng ở Xuân Diệu, thiên nhiên say đắm ngọt ngào hương vị ngôn ngữ ái tình, còn nơi Huy Cận, thì cây cỏ núi sông lại điềm nhiên lặng lẽ như nhằm nhè nỗi buồn của “cái tôi” trơ trẽn cô độc. Tràng giang là một trong những kiệt tác kết tụ từ nỗi sầu “mang mang thiên cổ” đó! Đọc bài thơ, có lẽ ta sẽ gặp được một nỗi buồn, nỗi buồn của chàng thanh niên mà “trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ”, nỗi buồn có lẽ rất… Huy Cận mà đã hơn một lần Xuân Diệu nói về nó như sau:
“Trong thơ Việt Nam, nghe bay dậy một tiếng địch buồn, không phai sáo thiên thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái tôi, mà ấy là một bản ngùi ngùi dài” có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc bông lau, có phải niềm than vãn của bờ sông bãi cát, có phai mặt trăng một mình đang cảm thông cùng các vì sao? Tiếng rền rĩ dịu em sẽ vấn lấy ta như một dải lụa ôm ấp một vế đau, tiếng len ăn nhằm &o hồn ta như khí hậu của núi đèo, tiếng làm thành sương đọng lệ trên mắt ta…”.
Một lời nhận xét thật hay! Mà có lẽ chỉ cần bấy nhiêu đó thôi, ta đã hiểu được khá nhiều về thơ Huy Cận!
Và đặc biệt là đối với Tràng giang …
Bài thơ chính là một bức tranh thiên nhiên mà linh hồn của nó là một nỗi buồn bóng gió, hoang vắng, có một cái gì đó như tàn lụi cô đơn”.
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song
Nhìn những cơn sóng nhỏ đang lặng lẽ gối đấu nhau mà đi xa đến tận cuối chân mây, tâm hồn nhà thơ bỗng dâng lên một nỗi buồn “điệp điệp”. Từ “điệp điệp” đã tạo nên hình ảnh một nỗi buồn ngàn trùng, một nỗi buồn triền miên, lớp lớp… Thường người ta nói trùng trùng điệp điệp để chỉ núi non, nhưng ở đây tác giả lại đem nó để miêu tả một nỗi buồn, đúng là một sáng tạo thật độc đáo trong cách dùng từ để hình ảnh hóa một nỗi buồn thật là lãng mạn! Âm điệu thơ như ngân xa da diết, như thân thuộc quen quen! Có lẽ Huy Cận đã liên tưởng đến một câu ca dao:
Sóng bao lăm gợn, dạ em sầu bấy nhiêu
Ở đây, có bao lăm gợn sóng trên dòng Tràng giang từ là có bấy nhiêu nỗi buồn thi sĩ. Câu thơ không chỉ nghiêng về số liệu mà còn nặng về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhàng lặng lẽ thôi nhưng da diết và dai dẳng, nó như vô tình ngàn xa và tạo thành một tiếng buồn vô tình, vang vọng mãi giữa đất trời vũ trụ…
Và… nổi bật giữa những lớp sóng bạt ngàn đó là hình ảnh của một con thuyền, một con thuyền nhỏ nổi bật giữa những lớp sóng nhưng cũng đang khuất chìm trong chúng! Hình ảnh độc đáo vô cùng! Chiếc thuyền con như đang lênh đênh, bềnh bồng không định hướng, cứ xuôi mãi, xuôi mãi … theo dòng nước vô tận nghìn trùng…
Cụm từ “nước song song” cũng là một cấu tứ lạ mà ta chưa từng đọc bao giờ, nó đối với “buồn điệp điệp” ở câu trên như để gợi ra một nỗi buồn cao lớn trùng điệp!
Sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau, con thuyền đã không còn trôi xuôi theo dòng nước nữa:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng…
Thế cân bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. Thuyền về, mà về đâu? … Không rõ! Chỉ để lại một mặt sông vắng bóng thuyền, nỗi cô đơn như trải rộng ra dường như vô tận. Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần, khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia “sầu trăm ngả”. Huy Cận đã khéo léo trong việc miêu tả sự vận động của sự vật để nói đến bước đi của không gian. Thời gian vận chuyển theo tầm nhìn con thuyền và không gian cũng mở rộng cùng với nó. Nếu như lúc trước, không gian chỉ xác định theo dòng nước đang chuyển động song song cùng với con thuyền thì hình bóng con thuyền đã trở nên mất dạng, không gian chợt mở rộng ra đến “trăm ngả”, vô tận mông mênh không có lấy một điểm tựa nào! chính bới, câu thơ thứ ba đã trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô cùng:
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi một cành khô” có lẽ là một hình ảnh mà ta chưa từng gặp bao giờ, chính nó đã đưa đoạn thơ thoát khỏi bầu không khí cổ kính để trở về với thời hiện đại” một cành củi khô đang nổi trội dập dềnh giữa muôn &n cơn sóng, lúc bị đẩy bên này, lúc lại dạt sang bên kia… Đó có phải chăng là hóa thân của một kiếp người lữ thứ, luôn lạc lõng bơ vơ, bị cuốn trôi theo chiều xoáy cuộc đời?
Tràng giang đó, vẫn bình thản suy tư qua lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua dòng khơi “nước song song” và qua vẻ hững hờ mặc cho “thuyền về nước lại” mặc cho nhánh củi lạc loài trôi!… Tràng giang!… Sóng gợn Tràng giang!…
Sang khổ thơ sau, tác giả đã đi sâu &o việc mô tả chi tiết nỗi buồn. Cái buồn bằng bạc cả không gian giờ đã không còn đi lang thang vô địch trên sông mà đã tấp &o một cồn đất nhỏ:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cảnh trong bài thơ chứa đầy tâm trạng. Có lẽ Huy Cận đã tập trung tất cả các hình ảnh và nhạc điệu để làm nổi bật lên cái buồn của con người trước cảnh trời rộng sông dài. Cảm giác buồn gửi trong vần điệu, trong các từ gợi hình mong manh và cô quạnh! “Lơ thơ” gợi hình ảnh, “đìu hiu” gợi cảm giác, cả 2 từ láy như đã được nhà thơ phát huy hết hiệu quả để mô tả nỗi buồn, một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, buồn đến lạnh lẽo cô đơn, đến rợn ngợp tâm hồn.
Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, có thể hiểu là “đâu đây có tiếng làng xa vãn chợ”, nhưng đó cũng có thể là vướng mắc mà tác giả đặt ra cho chính bản thân mình” “đâu rồi”, “có đâu” tiếng “làng xa vãn chợ?”…
Ở đây, Huy Cận đã áp dụng khá tự nhiên một thủ pháp quan trọng trong thủ pháp cổ điển” mượn cái “động” để nói đến cái “tĩnh”, cố tìm kiếm và lắng nghe một âm thanh động để lặng đi trong bầu không khí tĩnh lặng đến rợn người!
Nỗi buồn ấy như càng trải rộng hơn trước cái nền không gian mà tác giả dựng nên bằng những từ ngữ vô cùng độc đáo:
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu
Cùng một lúc, Huy Cận đã sử dụng thủ pháp của một nhà nhiếp ảnh và nghệ thuật của một nhà hội họa để dựng nên một bức tranh độc đáo. thông thường từ “chót vót” chỉ được dùng để diễn tả chiều cao, &o thơ sâu thăm thẳm” không gian như vụt lớn hơn ra. Trên bức tranh sông dài hiện thêm một nét trời cao “sâu chót vót”, &i cồn đất nhỏ, “bến cô liêu”. Thiên nhiên phóng khoáng hơn và tưởng chừng sẽ sống động hơn, nhưng không! Khi lòng người còn “đìu hiu”, “cô liêu” thì “cảnh có vui đâu bao giờ”… &i dải đất giữa sông dài, &i ngọn gió “đìu hiu”, chưa đủ để làm tươi cảnh vật và âm thanh của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” thì mơ hồ và mong manh lắm! Quanh tác giả giờ đây chỉ còn có thiên nhiên, một thiên nhiên với cái buồn ảo não và da diết đến bằng bạc cả không gian và thời gian” những lớp tiếng sóng gợn Tràng giang, tiếng đìu hiu heo hắt của bờ lau khóm trúc, nỗi sầu vạn cổ tự ngàn xưa chợt theo gió thổi về! Giờ đây, giữa thiên nhiên vũ trụ rộng bát ngát rộng lớn ấy, chỉ còn lại có một mình tác giả, một mình đứng lặng chôn chân trong quạnh quẽ, cô liêu, cũng như Trần Tử Ngang, ngàn năm trước cũng đã có cuộc viễn du tương tự như thế:
Ao người trước đã qua!Ai người sau chưa tới?Giữa trời đất vô cùngMình ta luôn giọt lệ!
Người cô đơn lại gặp cảnh hoang vắng tịch liêu thì nỗi cô đơn ngày càng thêm đậm. Khổ thơ thứ ba như mở ra cái khung cảnh dường như không có chút dấu vết nào của sự sống, một khung cảnh như đã bị chìm đắm trong thế giới của sự ngột ngạt đến vô cùng.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi &ng.
Nỗi buồn được mở rộng ra hơn, dù lời thơ có thêm được &i gam màu sắc nhạt nhòa! Cảnh có mở ra thêm bờ bờ bãi bãi, thêm ít màu sắc &ng tô điểm giữa bức tranh và thay thế “củi một cành khô” đơn độc lênh đênh đã là những đám bèo “hàng nối hàng” theo nhau đi mãi. Nhưng “hàng nối hàng” kia chợt xuất hiện trong dòng sông của nhà thơ như lời đáp, đành để mặc cho tâm hồn mình trở thành một chiếc đảo cô đơn giữa mây trời sông nước” “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”.
Một loạt các tình từ mênh mang lặng lẽ đã gợi lên không khí vắng vẻ u buồn, lại còn thêm những chi tiết phủ định” “Không một chuyến đò ngang”, không một chiếc cầu nối càng làng tăng nỗi cô liêu quạnh quẽ. Đến đây tình trạng cô đơn có lẽ đã lên tới đỉnh điểm, ước mong tìm thấy một “chút niềm nhiệt tình” ở một “chuyến đò ngang”, một sự liên lạc nào đó với con người qua chiếc cầu nhỏ bé, nhưng tất cả đều không có được:
Thuyền không giao nối dây qua đóVạn thuở chờ mong một cánh buồm!
Đôi bờ sông như hai thế giới tách biệt nhau, bờ này tự thu mình không liên lạc với bờ kia! Dòng nước vẫn cứ vô tình hững hờ chảy. Tràng giang mỗi lúc một to lớn, mỗi lúc mỗi ai hài dưới tâm tư trĩu nặng của người thi sĩ trẻ, đã sớm vương nỗi sầu thiên cổ bát ngát và những cánh bèo đang tản giật trên lớp sóng nước kia có phải chăng chính là hình ảnh tượng trưng cho thân phận nhà thơ, của lớp người trẻ ở những năm ba mươi, cũng hoang mang vô địch, cũng mỏng manh nhỏ bé, cũng long đong nổi trôi theo dòng chảy bất tận của cuộc đời? Giống như tâm trạng mà Xuân Diệu một lần đã viết” “Chúng tôi cũng bơ vơ, mỗi hồn người là một cõi bơ vơ trong đất trời là một khung bơ vơ”. Như vậy, cái buồn của Huy Cận, của một chàng thi sĩ đã “hơn một lần gửi áo cho trăng” và lòng vẫn hay “sầu mưa”, “tủi nắng” ấy không phải là cái buồn vô cớ, mà nó cũng chính là cái buồn của thời đại, mà nếu nói cho chính xác hơn thì đó là nỗi buồn của thanh niên tiểu tư sản trí thức lúc bấy giờ, những con người bị “giấc mơ con đè nát cuộc đời con” với những mảnh linh hồn nhưng lại bị “thiên hạ bỏ đìu hiu” với những đôi chân “muốn giấu lỗ, thủng gai đời”! Và có lẽ vậy bởi vậy hơn một lần họ đã từng than thở:
Nếu như chưa biết bao nhiêu lần hốt hoảngTrong sầu đen đã gãy cánh như dơ dáyiNếu chưa biết bao nhiêu dòng lệ đắngChảy như sông không rửa sạch sầu đời!
Mượn dòng sông để soi linh hồn bé nhỏ cô đơn, nỗi buồn kia như lại càng thêm oằn sâu và trĩu nặng! Nhà thơ đã đem lại cái tâm trạng đầy cô đơn buồn bã ấy mà phủ lên cảnh vật thiên nhiên.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Trên giữa bầu trời xanh to lớn, mây đùn lên trông giống như những ngọn núi bạc trắng xóa, chợt xuất hiện một cánh chim bé nhỏ mà “Bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh” (Xuân Diệu).
Dùng một vật hữu hình để diễn tả một cái vô hình. Thật khó để hình dung được ranh giới giữa cái nhỏ bé hữu hạn và cái lớn lao vô hạn mà Huy Cận đã đưa ra! Cảnh vật hiện lên trong thơ ông dù cho rất buồn nhưng vẫn chưa đựng được một cái gì đó hùng tráng và mạnh mẽ. Điều độc đáo ở đây chính là cách nhìn của nhà thơ! “Trong cánh chim nghiêng, tác giả đã thấy được bóng chiều sa!”. Trong lúc Nguyễn Du thấy “bóng chiều” qua những nhánh “tơ liễu thướt tha” Hàn Mặc Tử thấy “bóng xuân sang” trên những giàn thiên lí, thì ở đây Huy Cận cũng tỏ ra tinh tế không kém khi nhận thấy “bóng chiều” về trên một cánh chim nghiêng! Một cánh chim lẻ loi, chấp chới trong ánh chiều đang xuống, khiến cho trời đất như rộng trải ra thêm! Không gian vừa mới trải mênh mang trong dáng dấp ngàn mây “lớp lớp” chất chồng, chợt ầm xuống hoàng hôn rất nhanh, đó cũng là khi tâm hồn người lữ khách chợt bâng khuâng nhớ đến quê nhà.
Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Âm hưởng của thơ Đường triền miên trong câu cuối, mượn niềm luyến nhớ quê hương của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu
Nhưng Huy Cận đã bộc lộ tình ái đậm đà tha thiết hơn! Tình yêu khắc khoải nên thủy triều rạo rực xôn xao. Điệp từ “dợn dợn” cũng rập rờn như sóng Tràng giang “điệp điệp”, cái rập rờn trùng điệp chan chứa biết bao tình. Ngày xưa, nhà thơ Đường phải có “khói sóng trên sông”, Hồ Dzếnh phải có “khói buồn bay lên mây” mới có thể gợi nhớ quê hương, mới có thể “nhớ nhà trong điếu thuốc”, nhưng còn ở đây thì lại khác. nhân vật trữ tình trong thơ Huy Cận đứng trước cảnh không sương, không khói hoàng hôn mà cũng rung rung nỗi nhớ về một miền quê xa khuất phía chân trời. Huy Cận chẳng cần ngoại cảnh! Hiện tại cái buồn đã thành hình, không chỉ còn là cái cảm giác sầu bát ngát vời bà xãi do xúc cảm sinh tình khi ngắm nước Tràng giang. Hai câu kết được gói gọn trong những dòng cảm xúc thiết tha và đẹp đẽ! Và nó làm ta gợi nhớ đến những câu thơ ngày trước:
Đạm đạm trường giang thủyDu du viễn khách tình
Bao phủ toàn bài thơ là một nỗi buồn rộng khắp và ăn nhằm, một nỗi buồn mà Hoài Thanh đã từng nhận xét” “Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn… Người đã gợi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi gợi cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này!”.
Buồn nhưng không bi lụy, không chán nản! Bài thơ hiện diện với tư cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết nồng nàn! Có phải chăng vậy cho nên mà Xuân Diệu đã từng truyền tụng” “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.
………
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn cảm nhận Tràng giang
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp