Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Phát triển kinh tế biển Việt Nam – Bộ Tài Chính. Bài viết te bien tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
(Tapchicongsan.org.vn) Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển kinh tế biển với lợi thế về địa – chính trị, địa – kinh tế khi nằm trên bãi tắm biển Đông, nơi tuyến hàng hải sôi động của thế giới chạy qua, có biển, vùng bãi tắm biển và hải đảo phong phú tài nguyên. Để kinh tế biển phát triển, Việt Nam cần phát huy tối đa các tiềm năng và lợi thế so sánh cũng như đảm bảo an toàn cho môi trường sinh thái.
Bạn Đang Xem: Phát triển kinh tế biển Việt Nam – Bộ Tài Chính
Tiềm năng và lợi thế
Với chiều dài bãi biển 3.260km, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chỉ số tốt nhất có thể về chiều dài bãi tắm biển so với diện tích lãnh thổ. Theo đó, bình quân cứ 10km2 đất liền có 1km bãi tắm biển, cao gấp 6 lần chỉ số trung bình của thế giới. Việt Nam có hơn 3.000 hòn đảo và hơn 1 triệu km2 vùng biển kinh tế đặc quyền bát ngát gấp 3 lần diện tích đất liền, chứa đựng nhiều hệ sinh thái quan trọng và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng.
Xét về vị thế, vùng biển Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng, là con đường biển ngắn nhất nối liền Ấn Độ Dương và Thái tỉnh bình dương và thời điểm bây giờ là tuyến hàng hải nhộn nhịp thứ 2 trên thế giới. Trong lịch sử và cho đến tận bây giờ, đây vẫn là con đường huyết mạch nối liền đông bán cầu và tây bán cầu. Việt Nam cũng nằm tại khu vực có nhiều nền kinh tế có tốc độ phát triển mạnh nhất thế giới bây chừ, như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Đông Nam Á khác. Nghiên cứu về vấn đề này, PGS.TS. Vũ Thanh Ca, Viện Chiến lược chính sách tài nguyên – môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhấn mạnh: “Giá trị cao của địa – chính trị vùng biển Việt Nam biểu hiện ở chỗ nó nằm tại khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao và là cầu nối giữa nhiều cường quốc kinh tế và chính trị trên thế giới. Vùng biển Việt Nam lại nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiều khu vực ấm quanh năm, rất thuận lợi cho du khách từ nhiều quốc gia, đặc biệt từ các quốc gia có mùa đông lạnh tới nghỉ dưỡng, tắm biển… Tài nguyên vị thế trên vùng biển Việt Nam còn thể hiện ở giá trị sử dụng của không gian biển. Với vị trí thuận lợi cho giao thông và các vũng, vịnh kín có độ sâu lớn, rất thuận lợi làm cảng, không gian minh mông ở ven biển và trên bãi biển rất thuận lợi để phát triển các khu kinh tế. Không gian mặt nước và các bãi bồi ven biển cũng rất thuận lợi để nuôi trồng hải sản, đặc biệt là các hải sản có giá trị kinh tế cao.”
Ngoài giá trị về vị thế, vùng biển Việt Nam còn có nhiều nguồn tài nguyên phong phú, trong đó giá trị lớn là dầu khí, nguồn lợi thủy sản… Theo các số liệu thống kê, trữ lượng cá ở vùng biển nước ta khoảng 5 triệu tấn/năm, trữ lượng cá có thể đánh bắt hằng năm khoảng 2,3 triệu tấn. Dọc ven biển có tên 37 vạn ha mặt nước các loại có khả năng nuôi trồng thủy sản nước mặn – lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như tấp ủ, cua, rong câu. Dường như còn có hơn 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ như vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, phá Tam Giang, vịnh Vân Phong… là môi trường rất thuận lợi để phát triển nuôi cá và đặc sản biển. bãi tắm biển Việt Nam cũng có nhiều vũng, vịnh sâu kín gió, rất thuận lợi để làm cảng biển.
Với đường bãi biển dài và hơn 3.000 hòn đảo, Việt Nam được thiên nhiên ban phú cho nhiều bãi tắm đẹp, có giá trị nghỉ dưỡng cao. Theo thống kê, dọc bờ biển Việt Nam có khoảng 125 bãi tắm biển đẹp, trong đó, một số bờ biển và vịnh được đánh giá là những bãi biển và vịnh đẹp nhất của thế giới như bãi biển Mỹ Khê (Đà Nẵng), Phú Quốc (Kiên Giang), Eo gió (Tỉnh Tỉnh Bình Định), vịnh Nha Trang, vịnh Lăng Cô, đặc biệt, vịnh Hạ Long với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Điều này tạo nhiều lợi thế cho Việt Nam phát triển du lịch biển.
Tài nguyên biển phong phú chính là tiền đề cho xây dựng các chiến lược về biển. Trong đó, Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 09-02-2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đặt mục tiêu đưa đất nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển theo hướng phát triển bền lâu lâu dài lâu dài, phấn đấu đóng góp khoảng 53 – 55% tổng GDP; 55 – 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn nước; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải sinh thêm một bước đáng kể đời sống cho nhân dân vùng biển và ven biển; có thu nhập bình quân đầu người cao gấp gấp hai so với thu nhập bình quân chung của toàn nước.
Xem Thêm : Các ngành công nghiệp nặng chủ đạo tại Việt Nam hiện giờ
Kinh tế biển Việt Nam chưa tương thích với tiềm năng
Có thể nói Chiến lược biển Việt Nam là quyết tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đưa nước ta trở thành quốc gia biển. Sau hơn 10 năm thực hiện Chiến lược biển, kinh tế biển Việt Nam đã đạt được một số thành công. Tuy nhiên, kinh tế biển bây chừ vẫn chưa kiên cố và chưa phát huy được các thế mạnh của tài nguyên biển.
Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội Quốc gia – Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá 1 cách tổng thể, sự phát triển của kinh tế biển, đảo ở Việt Nam vẫn chưa xứng tầm với các điều kiện và lợi thế sẵn có. Quy mô kinh tế biển của thế giới ước đạt 1.800 tỷ $. Theo ước tính, quy mô kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47 – 48% GDP toàn nước, trong đó, GDP của kinh tế “thuần biển” mới đạt khoảng 20 – 22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, nuôi trồng, đánh bắt hải sản, vận tải biển, du lịch biển. Các ngành kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới khai thác biển như chế biến dầu khí, chế biến thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, thông tin liên lạc… bước đầu phát triển, nhưng Hiện tại quy mô mới chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nước. cấu trúc hạ tầng các vùng biển, ven biển, đảo tuy được nhiệt tình nhưng vẫn còn hạn chế. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, mạng lưới tàu thuyền, trang thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp.
Điều đáng lo ngại là việc phát triển kinh tế biển đã gây ra những suy thoái rất mạnh mẽ tới môi trường và các nguồn tài nguyên biển. Theo PGS.TS. Vũ Thanh Ca, phát triển kinh tế biển của Việt Nam bây chừ đang gặp rất nhiều thách thức, chủ yếu là do chủ quan. Nguyên nhân lớn nhất là do chưa có quy hoạch sử dụng biển cũng như quy hoạch tổng thể sử dụng vùng bờ biển theo quan điểm quản lý tổng hợp. Điều đó dẫn tới nguồn thủy sản bị đánh bắt cạn kiệt, các hệ sinh thái biển quan trọng như rừng ngập mặn, hệ rạn san hô, thảm thực vật biển bị phá hoại và suy thoái nghiêm trọng. Nhận thức của ngư dân còn thấp nên còn đánh bắt cá phi pháp, thậm chí đánh bắt hủy diệt tại các vùng biển Việt Nam và vùng biển nước ngoài, gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Ô nhiễm môi trường biển ngày càng gia tăng điển hình là vụ xả nước thải phi pháp ra biển của Công ty Hưng Nghiệp (Fomosa) tại Hà Tĩnh, đã gây ra những hậu quả rất lớn tới môi trường biển và kinh tế – xã hội tại các tỉnh ven biển từ Hà Tĩnh tới Thừa Thiên Huế.
Bên cạnh đó, việc quản lý nhiều khu bảo tàng biển chưa hiệu quả nên chưa tạo nhiều thay đổi trong hồi sinh, tái tạo nguồn lợi thủy sản. Việc đầu tư cấu trúc hạ tầng ven biển còn dàn trải. Hệ thống chính sách, pháp luật phát triển kinh tế biển chưa đồng bộ, chưa tạo được sức mạnh để điều chỉnh các hoạt động sinh hoạt phát triển kinh tế biển. Đặc biệt, nhận thức về phát triển 1 cách hiệu quả, kiên cố lâu dài kinh tế biển của cán bộ và nhân dân chưa cao, khái niệm về nền kinh tế biển xanh hầu như chưa được hiểu và áp dụng thống nhất ở Việt Nam.
Phát triển bền lâu kinh tế biển từ các cách tiếp cận khác nhau
Đề xuất giải pháp phát triển bền vững lâu dài và kiên cố kinh tế biển, với cách tiếp cận từ hệ thống quản lý nhà nước, PGS,TS. Vũ Sĩ Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh tới vai trò của quản lý tổng hợp tài nguyên môi trường biển và hải đảo. Do tài nguyên biển và hải đảo chủ yếu đang được quản lý theo ngành, lĩnh vực nên việc khai thác, sử dụng chưa dựa trên việc phân tích các chức năng của mỗi vùng biển 1 cách tổng thể; còn thiếu sự gắn kết, hài hòa lợi ích giữa các bên ảnh hưởng trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển trên cùng một vùng biển. mặt khác, các hoạt động sinh hoạt sinh hoạt trên biển có mối liên hệ, ảnh hưởng liên quan nhất định đến nhau, vùng với tính chất liên thông của biển thì trong một số trường hợp, quản lý theo ngành, lĩnh vực với đặc điểm luôn tối đa hóa lợi ích của ngành, lĩnh vực mình mà không xem xét vấn đề khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và hải đảo một cách tổng thể đã làm hạn chế sự phát triển chung, thiếu sự hài hòa lợi ích của các ngành, lĩnh vực, làm suy thoái nhiều loại tài nguyên, nhất là tài nguyên tái tạo; tình trạng ô nhiễm môi trường biển, hải đảo có chiều hướng gia tăng; nhiều hệ sinh thái biển và hải đảo quan trọng đã bị tổn thương nghiêm trọng; dẫn tới sự nghèo khổ của nguồn lợi thủy sản.
Hình như đó, quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo là phương thức quản lý theo phương châm không làm thay quản lý ngành, lĩnh vực mà đóng vai trò điều phối, phối hợp các hoạt động quản lý ngành, lĩnh vực nhằm quản lý có hiệu quả hơn những hoạt động sinh hoạt điều tra, thăm dò, khai thác, sử dụng các loại tài nguyên biển và hải đảo. Do đó, “phương thức quản lý tổng hợp có vai trò điều chỉnh hoạt động vui chơi của con người để bảo vệ tính toàn vẹn về chức năng và cấu tạo của hệ sinh thái, duy trì và cải thiện năng suất của hệ sinh thái, qua đó, đảm bảo tài nguyên biển được quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm, môi trường biển được bảo vệ, hài hòa được lợi ích của các bên thúc đẩy trong khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển” – PGS,TS. Vũ Sĩ Tuấn nhấn mạnh.
Xem Thêm : Khí hư ra nhiều loãng như nước là bệnh gì?
Do tính hiệu quả và thiết thực, đến năm 2002, đã có 145 quốc gia và vùng lãnh thổ thực hiện 622 chương trình hoặc dự án quản lý tổng hợp vùng bờ; trong đó có nhiều quốc gia có biển trên thế giới đã áp dụng phương thức quản lý này có hiệu quả như Mỹ, Ca-na-da, Trung Quốc, Nhật Bản, các nước EU, Nam Phi, Úc… Còn tại Việt Nam, quản lý tổng hợp mở màn từ việc Tổ chức Đối tác quản lý môi trường các biển Đông Á/PEMSEA, giới thiệu và thực giờ đây Đà Nẵng năm 1995, tiếp sau đó là nhiều chương trình dự án khác. Và sự ra đời của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (năm 2008) là một dấu mốc quan trọng trong quyết tâm thực hiện quản lý tổng hợp, thống nhất về biển và hải đảo Việt Nam. PGS.TS. Vũ Sĩ Tuấn cho rằng: “Muốn triển khai quản lý tổng hợp biển và hải đạo trên quy mô toàn nước thành công, trước mắt cần hoàn thiện pháp luật, xây dựng; công bố quy hoạch tổng thể, thành lập Ban Điều phối cấp quốc gia”.
Cũng dưới góc độ quản lý tổng hợp biển, và hải đảo, đồng chí Hà Thanh Biên, Cục Quản lý khai thác biển và hải đảo, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho rằng, để phát triển kinh tế biển bền vững, cần xây dựng một quy hoạch sử dụng biển cho toàn quốc mang tính tổng hợp với phương thức tiếp cận sinh thái.
Với cách tiếp cận từ lợi thế và hạn chế của kinh tế biển, một số chuyên gia cho rằng cần xây dựng và triển khai thực hiện một cơ chế kinh tế thị trường theo hướng nền kinh tế biển xanh bằng cách xây dựng và thực hiện quy định pháp luật để đảm bảo tối ưu hóa các lợi ích. Ở góc độ nghiên cứu phát triển kinh tế các xã đảo ven bờ, đồng chí Lê Xuân Sinh, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam nhấn mạnh: “Mô hình kinh tế xanh sẽ đảm bảo được cộng đồng dân cư tại các xã đảo chống chịu được các thách thức của biến đổi khí hậu, bảo đảm tự cung tự cấp trong điều kiện bị chia cắt với đất liền trong thời gian nhất định”. Để phát triển bền vững hệ thống các xã đảo ven bờ Việt Nam, cần định hướng phát triển mô hình kinh tế xanh trên cơ sở các ngành sản xuất dịch vụ phải thân thiện với môi trường; bảo tồn và phát triển rừng nhằm bảo vệ tính đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển kinh tế thủy sản theo hướng tiếp cận quy trình công nghệ nuôi trồng thủy sản hiện đại và ưu tiên phát triển du lịch sinh thái, coi đây là động lực ảnh hưởng các ngành kinh tế khác, tạo nên sự biến đổi cơ cầu ngành nghề và nâng cao thu nhập cho cộng đồng dân trên đảo. Riêng đối với kinh tế 3 xã đảo ven bờ (Việt Hải, thành phố Hải Phòng; bẩn thỉun Châu, tỉnh Bình Định và Nam Du, tỉnh Kiên Giang) thì mô hình kinh tế xanh đầy đủ cho các đảo ven bờ là kinh tế nông lâm nghiệp xanh, sạch – kinh tế ngư nghiệp và dịch vụ du lịch.
PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi cho rằng, miền Trung và 14 tỉnh thành ven biển trong vùng vừa có những lợi thế địa chiến lược, vừa có tính độc đáo về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên biển, ven biển và đảo, bảo đảm cho kinh tế biển ở đây phát triển vững bền và tăng trưởng xanh lam. Theo ông, vùng biển miền Trung có thềm lục địa hẹp chiều ngang và thuộc phần bồn trũng nước sâu kiểu đại dương” trong Biển Đông, các đảo ven bờ phân bố rải rác ở các tỉnh và có hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là vùng biển giàu san hô nhất trong Biển Đông với các hệ thống san hô sinh trưởng trên nền núi lửa cổ ở quy mô mênh mông và đóng vai trò quyết định đối với đa dạng sinh học và nghề cá Biển Đông và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế biển xanh và bền vững ở miền Trung. Bên cạnh đó, điều kiện môi trường tự nhiên biển khơi tiếp cận trực tiếp gần bờ của miền Trung rất thuận lợi cho phát triển nghề khai thác hải sản biển xa bờ của các tỉnh Nam Trung bộ. Chỉ riêng xuất khẩu cá ngừ năm 2016 đã lên đến gần 400 triệu đô la Mỹ. Ngoài ra, tuyến hàng hải quốc tế Ấn Độ Dương – thái Bình Dương và các tuyến trong khu vực Biển Đông phần lớn đều đi qua hoặc lân cận vùng biển miền Trung nước ta. Đây là khu vực phân bố các bồn trầm tích có các cấu tạo dầu khí triển vọng và các biểu thị băng cháy ở nước ta. Tiềm năng phát triển cảng – hàng hải của vùng này rất lớn mà đến nay chưa được khai thác tương xứng. Vùng ven biển miền Trung có vị trí rất quan trọng, là cửa mở thông thương ra biển và có thể hỗ trợ cho hội nhập kinh tế nội khối ASEAN thông qua Hành lang kinh tế Đông – Tây. Nhiều vịnh, vũng có thể xây dựng thành các cảng biển nước sâu tiềm năng nhất ở nước ta, tạo tiền đề phát triển các khu kinh tế ven biển theo mô hình: cảng – đô thị – biển như: Nghi Sơn (Thanh Hóa), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Dung Quất (Quảng Ngãi), chân mây (Đà Nẵng), Vịnh Hàn, bẩn thỉun Hội (Bình Định), vịnh Vân Phong, Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hòa). Để phát triển kinh tế biển miền Trung, theo ông cần chuyển “yếu thế” trong vùng thành lợi thế và từ lợi thế chuyển thành lợi ích cho kinh tế biển toàn vùng và cho đất nước trên cơ sở tôn trọng các yếu tố đặc thù, các giá trị cốt lõi trong vùng và từng địa phương, bảo đảm tốt liên kết vùng trong phát triển “chuỗi” khu kinh tế biển đảo, chuỗi đô thị ven biển và chuỗi đô thị đảo ở miền Trung. Thực trạng và tiềm năng phát triển của miền Trung đòi hỏi phải thay đổi tầm nhìn, xóa bỏ định kiến trong chiến lược phát triển kinh tế biển theo hướng chuyển từ “nâu” sang “xanh lam”, hướng tới sự phát triển bền vững và thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát huy cơ hội, khắc phục thách thức để kinh tế biển miền Trung “bứt phá” trong dài hạn.
Về lĩnh vực phát triển du lịch biển, giảng viên Đào Thị Bích Thủy, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội đánh giá Việt Nam có khoảng 125 bãi biển, vịnh biển thuận lợi để phát triển du lịch. Ngoài ra, Việt Nam còn có các khu dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận và hệ thống các vườn quốc gia và khu bảo tàng thiên nhiên ven biển đa dạng. Các vùng ven biển cũng được thừa hưởng các di tích lịch sử văn hóa phong phú. Đó là những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch nghỉ dưỡng biển đảo, du lịch sinh thái, thể thao và mạo hiểm.
Thực tế, du lịch biển trong những năm qua tăng trưởng cả về doanh thu và số lượt khách du lịch, tính bình quân trong giai đoạn 2 ngàn – 2015 trong tổng số 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì chỉ riêng 28 tỉnh, thành phố giáp biển đã chiếm tỉ trọng 71,5% doanh thu du lịch lữ hành của cả nước. Điều này cho thấy ưu thế của du lịch biển trong ngành du lịch của cả nước. Xét theo bình quân địa phương trong giai đoạn này, tính trung bình doanh thu du lịch lữ hành của một địa phương giáp biển cao gấp 3,2 lần so với một địa phương không giáp biển. Mỗi địa phương cần tìm ra nét đặc thù, tạo lợi thế cạnh tranh riêng biệt để khai thác, phát triển tiềm năng du lịch từ đấy hoặc liên kết giữa các địa phương để tạo thành chuỗi du lịch nhằm khai thác lợi thế chung.
Hình như đó, đánh giá về tiềm năng năng lượng tái tạo vùng biển ven bờ Việt Nam và các dự án kéo điện từ đất liền ra các đảo ven bờ, PGS,TS. Lưu Đức Hải, Khoa Môi trường, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra các khuyến nghị mang tính dự báo: Việc chuyển tải điện từ đất liền ra các đảo ven bờ cần thiết trong gia đoạn hiện giờ có thể sẽ được thay thế bằng việc chuyển tải điện sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo từ đảo &o đất liền. Sự đổi hướng chuyển tải điện sẽ diễn ra nhanh chóng khi Nhà nước ân cần đến phát huy tiềm năng năng lượng tái tạo lớn của vùng biển ven bờ và xóa bỏ bao cấp trong sản xuất điện từ các nguồn năng lượng truyền thống; đầu tư kinh phí đánh giá tiềm năng các dạng năng lượng tái tạo ở các vùng biển ven bờ; tạo điều kiện khuyến khích các nhà đầu tư thực hiện các dự án sản xuất điện từ nguồn năng lượng tái tạo./.
Bích Nguyên
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp