VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TỪ HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 8

Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TỪ HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 8. Bài viết vi sao hoi nghi trung uong 8 1941 co tam quan trong dac tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.

Sau 30 năm ra nước ngoài tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc kín đáo trở về nước. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về đến Cao Bằng rồi nhanh chóng bắt tay xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức quần chúng tại đây.

Bạn Đang Xem: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TỪ HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 8

Sau một thời gian chuẩn bị, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương do Nguyễn Ái Quốc chủ trì được triệu tập tại Pác Bó (Hà Quảng – Cao Bằng), từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên cùng một số đại biểu của Xứ uỷ Trung Kỳ, Bắc Kỳ và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài.

Phân tích tình hình thế giới, Hội nghị nhận định: chiến tranh thế giới đang lan bát ngát, phát xít Đức đang ráo riết chuẩn bị đánh Liên Xô, phát xít Nhật sắp gây ra cuộc chiến tranh Thái tỉnh bình dương. Chiến tranh sẽ làm cho các nước đế quốc suy yếu, phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh chóng, Liên Xô nhất định chiến thắng và cách mạng nhiều nước nhân đó mà thắng lợi. “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công” (1).

Phân tích tình hình Đông Dương, Hội nghị nhận định: từ khi Nhật nhảy &o xâm chiếm, Pháp đầu hàng Nhật, mọi hoạt động kinh tế ở Đông Dương đều bị chiến tranh hoá, tất cả bộ máy cai trị đều bị phát xít hoá. Chính sách phản động đó của Pháp – Nhật càng làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với chủ nghĩa đế quốc xâm lược thêm sâu sắc. “Các dân tộc Đông Dương hiện giờ bị dưới hai tầng áp bức bóc lột của giặc Pháp – Nhật. Ách áp bức ấy quá nặng nề, các dân tộc Đông Dương không thể nào chịu được. Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các ách thống trị thợ thuyền, dân cày, mà chúng nó áp bức bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là anh tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả những kẻ thống trị bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng” (2). Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến Đô Lương cuối năm 1940 đầu năm 1941 là hệ quả của ách thống trị tàn bạo đó. Trên cơ sở nhận định tình hình, Hội nghị xác định: “Trong hiện giờ khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp – Nhật”(3). “Trong hiện nay quyền lợi của bộ phận, của thống trị phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc… nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc”(4). Như vậy, nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mệnh Đông Dương. Nhiệm vụ trước hết của cách mệnh Việt Nam bây giờ là phải giành cho được độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho đồng bào.

Dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc, căn cứ &o đặc điểm Đông Dương, hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc không phải chung trên toàn Đông Dương mà trong phạm vi từng nước, để “làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam)”. Đây là cơ sở cho sự đổi mới hình thức tên gọi Mặt trận dân tộc thống nhất để “có tính dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn”. Để tập hợp được mọi người Việt Nam yêu nước, tranh thủ các lực lượng cách mệnh chĩa mũi nhọn &o kẻ thù chủ yếu của dân tộc là phát xít Nhật-Pháp, hội nghị đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh; tạm gác khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày”; đề ra chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo; giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng.

Xem Thêm  Giải bài 58, 59, 60, 61, 62 trang 99 sgk toán 8 tập 1 – Giaibaitap.me

Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan, hội nghị cho rằng “Cuộc cách mệnh Đông Dương phải kết liễu bằng 1 cuộc khởi nghĩa võ trang”, chủ trương thành lập, phát triển và tăng cường lãnh đạo các tổ chức vũ trang và nửa vũ trang; chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn nước. Hội nghị nêu rõ: “ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm &o cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù, nghĩa là nay mai đây cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng chiến của nhân dân Tàu xoay ra hoàn toàn cho cuộc cách mạng Đông Dương thắng lợi thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa cao lớn”. Như vậy, vấn đề khởi nghĩa vũ trang đã có những dự kiến bước đầu trong các Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939); Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11/1940), sự đúc rút kinh nghiệm Xô viết Nghệ – Tĩnh, các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, binh biến Đô Lương đến Hội nghị này được hoàn chỉnh từ những dự đân oán xu thế phát triển của tình hình thế giới và trong nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị khẳng định phải xúc tiến ngay công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi. Đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện thời.

Hội nghị cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự đoàn kết ba dân tộc ở Đông Dương trong một chiến lược chống kẻ thù chung Pháp – Nhật và tay sai, giành độc lập ở từng dân tộc, coi đó là vấn đề sống còn của ba dân tộc. “Những dân tộc sống ở Đông Dương đều chịu dưới ách thống trị của giặc Pháp – Nhật, chính vì thế muốn đánh đuổi chúng nó không chỉ dân tộc này hay dân tộc kia mà đủ, mà phải có một lực lượng thống nhất của tất thảy các dân tộc Đông Dương họp lại” (5). Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, “ta phải thi hành đúng chính sách “dân tộc tự quyết” cho dân tộc Đông Dương” (6).

Vấn đề xây dựng Đảng được đặc biệt chú trọng. Hội nghị chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn về công vận, nông vận, binh vận…; tăng thêm thành phần vô sản trong Đảng, lấy việc vận động công nhân làm công việc đầu tiên trong tổ chức quần chúng của Đảng, làm cho phong trào công nhân lên cao và tiên phong cho các phong trào khác. Đảng bộ miền Nam, đảng bộ miền Trung phải giúp đỡ việc xây dựng Đảng ở Campuchia, Lào,… nhằm làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc đi đến toàn thắng. Hội nghị công bố một số văn kiện quan trọng như Chương trình Việt Minh, Điều lệ của Nông dân cứu quốc, Điều lệ của du kích cứu quốc, lời kêu gọi nhân dân bản xứ trong tình hình mới, văn kiện về vấn đề Đảng…

Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã kiện toàn ban lãnh đạo của Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương mới, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư, bầu Ban Thường vụ gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt. Chế độ làm việc của Ban Chấp hành Trung ương theo nguyên tắc: nêu cao tinh thần trách nhiệm; đoàn kết, nhất trí; tập thể lãnh đạo, cá nhân đảm đang; phê bình và tự phê bình. Ngay sau hội nghị, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã ra Lời kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đuổi đế quốc Nhật-Pháp.

Xem Thêm  Cách vẽ tranh Giáng sinh Noel đơn giản mà đẹp – Thủ thuật

Rõ ràng, nghị quyết của hội nghị lần thứ 8 đã đánh dấu bước tiến mới trong tư duy cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, phát triển, hoàn chỉnh những chủ trương được đề ra ở Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939) và Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11/1940). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) đã phát triển sáng tạo lý luận về cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa, tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc như nước ta; có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Xem Thêm : Động vật cũng có ý thức? – Tạp chí Tia sáng

Sau Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng, theo chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, vấn đề “Nam tiến” được thực hiện khẩn trương. Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ đánh thông hai con đường Cao Bằng – Lạng Sơn và Cao Bằng – Bắc Cạn – Thái Nguyên để giữ vững liên lạc với Thường vụ Trung ương Đảng, tạo điều kiện phát triển các cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang cách mạng.

Năm 1944, phong trào cách mạng ở Việt Nam phát triển khá mạnh. Trên cơ sở các lực lượng vũ trang nhân dân đang hình thành, thực hiện chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Hình như chú trọng xây dựng lực lượng chính trị và quân sự, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn nước khẳng định thời cơ giải phóng dân tộc đang đến gần và động viên các đoàn thể, đảng phái ra sức chuẩn bị để họp toàn nước Đại biểu hội nghị. Bức thư của Người có đoạn: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong 1 năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”

Đúng như nhận định của Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng từ hội nghị Trung ương 8, phát xít Nhật và thực dân Pháp nhất định loại trừ nhau, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương. Từ ngày 9 đến 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở mênh mông ở Đình Bảng (Thành Phố Bắc Ninh), ra Bản chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành vi của chúng ta”, xác định thời cơ Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, kẻ thù chính của dân tộc là phát xít Nhật và bọn tay sai; phát động phong trào chống Nhật, cứu nước.

Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) trực tiếp chỉ đạo cách mạng trong toàn nước. Người chỉ thị thành lập Khu giải phóng ở Việt Bắc, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân Giải phóng và đề ra “10 chính sách” với mục đích đánh đuổi bọn phát xít và bè lũ tay sai, chăm lo đời sống và mang lại các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Khu giải phóng.

bây giờ, Chiến tranh thế giới thứ hai bước &o giai đoạn kết thúc. Phát xít Đức, Ý đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh. Quân Nhật vô cùng hoang mang, dao động; phong trào cách mạng toàn nước sôi sục. Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Người nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “bây giờ, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Hội nghị Toàn quốc của Đảng (họp từ ngày 13 đến 15/8/1945) ra quyết định Tổng khởi nghĩa. Tiếp theo đó, Quốc dân Đại hội họp ngày 16/8/1945, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, diễn đạt sự đoàn kết toàn dân, đã nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa và bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng thời quy định Quốc kỳ và Quốc ca của nước Việt Nam mới. Từ Quốc dân Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Tổng khởi nghĩa. Theo lời kêu gọi của Người, toàn dân ta đã nhất tề đứng dậy làm Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào trở về Hà Nội. Người chủ tọa các buổi họp Thường vụ Trung ương Đảng, quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại trong tình hình mới; xác định trước hết, phải sớm ra bản Tuyên ngôn độc lập và ra mắt Chính phủ lâm thời. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước quốc dân và thế giới về quyền độc lập và tự do của đất nước và dân tộc Việt Nam.

Xem Thêm  Giải Thích Vì Sao 2 Adn Con Được Tạo Ra Qua Cơ Chế Nhân Đôi

Như vậy, từ tư tưởng và định hướng của Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941), Cách mạng Tháng Tám đã thành công, mở ra một trang mới cho dân tộc và lịch sử nước nhà.

Có thể nói, với sự có mặt và chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1941 đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới. Hội nghị đã phân tích sâu sắc mâu thuẫn chủ yếu của xã hội và vạch ra những sách lược cụ thể, sát hợp nhằm giải quyết mục tiêu chiến lược bậc nhất của cách mạng là độc lập dân tộc. Trên cơ sở đó mà có những chủ trương sáng tạo như thành lập mặt trận Việt Minh, xúc tiến khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 đã góp phần bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta.

Lật giở lại những trang Lịch sử Đảng, chúng ta lại càng thấy rõ tầm vóc và ảnh hưởng cao lớn của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh. Tinh hoa trí tuệ trong tư tưởng và năng lực lãnh đạo của Người đã giúp cho Đảng ta kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đưa cách mạng Việt Nam phát triển phù hợp với quỹ đạo vận động của thời đại, đồng thời có khả năng thâu tóm được những thời cơ, vận hội quý báu để tạo bước ngoặt quyết định thắng lợi của cách mạng. bài học để Đảng ta hôm nay tiếp tục cấm đoán và ứng dụng chính là phát huy năng lực lãnh đạo, kịp thời điều chỉnh, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược một cách hoạt bát, sáng tạo khi tình hình thay đổi.

Kỷ niệm 77 năm ngày bác bỏ Hồ về nước (28/01/1941 – 28/01/2018), những giá trị to lớn trong tư tưởng của Người và những bài học rút ra từ những năm tháng lịch sử cần được học tập và áp dụng một cách nghiêm túc, sáng tạo &o thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bây chừ.,.

Xem Thêm : LU I PA XTO – sachxuasaigon.com

Chú thích

(1), (2), (3). Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2 ngàn, tập 7, tr.122.

(4). Sđd tr. 114.

(5). Sđd tr.113

(6). Sđd tr. 129

Tài liệu đọc thêm

Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội

Đảng cộng sản Việt Nam, (2 nghìn),Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 7

Võ Nguyên Giáp (2 nghìn), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội

Lê Đức Hoàng Nguyễn Thị rạng đông , Hoạt động cách mạng của Bác Hồ ở Quảng Tây với thắng lợi Cách mạng tháng tám năm 1945, Khoa Sử, Đại học Vinh, trang thông tin KH&CN Nghệ An số 11/2012.

 

Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp

Recommended For You

About the Author: badmin

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *