Nội dung chính
- 1 I. Dàn ý Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
- 2 II. Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
- 2.1 1. Bài văn Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, mẫu 1 (Chuẩn):
- 2.2 2. Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi hay, mẫu số 2:
- 2.3 3. Bài Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, mẫu số 3:
- 2.4 4. Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, mẫu số 4:
- 2.5 5. Bài văn Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi lớp 10, mẫu số 5:
- 2.6 Bài viết cùng chủ đề
Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa 5 bài văn Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Thủ thuật. Bài viết phan tich bai tho canh ngay he cua nguyen trai tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
- Nguyên nhân, bản tính, đặc điểm chủ nghĩa tư bản độc quyền
- Tích Cực Độc Hại Là Gì Và Ảnh Hưởng Của Nó Trong Môi … – Glints
- Lý Thanh Thảo hiếm hoi nhắc về chồng cũ và mối quan hệ với con trai
- Lisa Việt Nam là ai? Lý do gì khiến cộng đồng mạng ném đá cô dữ
- Hướng dẫn cách học và soạn bài Tiếng Việt lớp 4: Trống đồng
Đề bài: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
Bạn Đang Xem: 5 bài văn Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Thủ thuật
5 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
I. Dàn ý Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
1 Mở bài
Giới thiệu &i nét về nhà thơ Nguyễn Trãi và bài thơ Cảnh ngày hè.
2. Thân bài
* Phân tích sáu câu thơ đầu: “Rồi hóng mát… tịch dương”– “Rồi hóng mát thuở ngày trường”: Giới thiệu về cuộc sống của Nguyễn Trãi khi về ở ẩn sau hàng tháng ngày bận bịu lo cho dân, cho nước: Rảnh rỗi, nhàn hạ với những hoạt động nhẹ nhàng, thư thái, thảnh thơi.- bức họa đồ thiên nhiên mùa hè: “Hòe đùn… mùi hương”+ Sự vật đặc trưng, quen thuộc của mùa hè: Cây hòe, cây lựu, hoa sen.+ Màu sắc nổi bật: greed color của hòe, đỏ của lựu, hồng của hoa sen…+ Trạng thái của các sự vật: “đùn đùn, rợp, phun, tiễn…”+ Mùi hương: Hoa sen cuối hạ.=> bức họa đồ mùa hè sống động, rực rỡ.- bức họa cuộc sống con người: “Lao xao… tịch dương”+ Âm thanh: Từ “chợ cá làng như phủ”; tiếng ve gọi hè+ Nghệ thuật: Từ láy “lao xao”, “dắng dỏi”; nghệ thuật đảo cấu trúc câu => Cuộc sống ồn ã, tràn đầy sức sống của con người nơi đây.=> Tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của Nguyễn Trãi.
* Phân tích hai câu thơ cuối: “Dẽ có Ngu cầm… đòi phương”– Điển tích, điển cố “Ngu cầm”: câu truyện về hai vị vua nổi tiếng nhân đức Nghiêu – Thuấn, luôn chăm lo cho đời sống nhân dân bởi thế mà hai triều đại này vô cùng hưng thịnh, thái bình; dân chúng ấm no, hạnh phúc. Mỗi ngày, vua thường đem đàn khúc Nam Phong mệnh danh cảnh thái bình thịnh trị.- Ước nguyện của Nguyễn Trãi: Ước có cây đàn mệnh danh khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống thanh bình nơi quê hương; ước nguyện lớn nhất là đất nước yên bình, nhân dân ấm no, hạnh phúc.=> Tấm lòng của nhà thơ: Tuy về quê ở ẩn nhưng vẫn nặng lòng với dân, với nước.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm Cảnh ngày hè.
II. Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
1. Bài văn Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, mẫu 1 (Chuẩn):
&o thế kỷ XV tức là thời kỳ Phục Hưng của Châu Âu, thời điểm xuất hiện những con người khổng lồ có trí tuệ và tri thức trên rất nhiều lĩnh vực ví như Leonardo da Vinci – một nhà họa sĩ, nhà điêu khắc và triết học tự nhiên. Thì cũng thế kỷ XV ấy, ở Việt Nam cũng đã xuất hiện anh tài Nguyễn Trãi – một nhà ngoại giao, một nhà quân sự tài ba, công thần đời đầu của nhà Hậu Lê, mà ông còn là một nhà văn hóa xuất sắc trên nhiều lĩnh vực bao gồm địa lý, lịch sử, vhọc tập,… Ở lĩnh vực văn, thơ Nguyễn Trãi đã để lại nhiều tác phẩm có tên tuổi và được người đời truyền tụng tán thưởng, tiêu biểu nhất là Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập,… Ông là người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Nho giáo với các tư tưởng nhân huệ và tư tưởng phụng mệnh trời, bên cạnh đó ông còn nổi bật với tư tưởng nhân dân mới mẻ. “Cảnh ngày hè” là bài thơ trích từ tập thơ Nấp ủ Quốc âm thi tập, thuộc Mục bảo kính cảnh giới bài số 43, mà tác giả thông qua cảnh ngày hè trong lúc nhàn hạ, Nguyễn Trãi vẫn một lòng hướng về nhân dân, mang đậm tư tưởng nhđậc ân, yêu nước thương dân, dù bản thân bị thất sủng, không còn được vua tin dùng.
Cảnh ngày hè được viết theo thể thơ thất ngôn Đường luật, tuy nhiên khi Nguyễn Trãi viết tác phẩm này thì thể thơ đã được thay đổi ít nhiều để phù hợp và uyển chuyển hơn. Chính bởi bố cục của bài thơ cũng không cứng nhắc với 4 phần đề thực luận kết, mà ở đây có sự tách biệt khá rõ ràng, trong đó 6 câu thơ đầu tiên là bức họa thiên nhiên cảnh ngày hè dưới tầm mắt một của một trí thức đã lui về ở ẩn, rời ra thế sự.
“Rồi hóng mát thuở ngày trườngHòe lục đùn đùn tán rợp giươngThạch lựu hiên còn phun thức đỏHồng liên trì đã tiễn mùi hươngLao xao chợ cá làng Ngư phủDắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Bên cạnh mốc thời gian bát ngát là một ngày hè thì, dấu hiệu thời gian để tác giả dựng lên bức họa thiên nhiên cuộc sống còn được biểu lộ qua ba chữ “lầu tịch dương”, ý chỉ thời điểm cuối ngày, khi mà mặt trời đã dần tắt, vạn vật đang thu mình lại để chờ đón đêm tối, chuyển từ trạng thái vận động sang trạng thái nghỉ ngơi. Thế nhưng trái lại, trong thơ của Nguyễn Trãi cái cảnh cuối ngày ấy lại khác, vạn vật không hề trở nên mỏi mệt, tĩnh lặng, héo úa, buồn bã giống như các vần thơ của các tác giả trung đại ví như Bà Huyện Thanh Quan với “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi/Dặm liễu sương sa khách bước dồn” hoặc như Nguyễn Du với “Chim hấp ủ thoi thót về rừng /Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa &nh”. Mà ở thơ của Nguyễn Trãi vạn vật vẫn căng tràn sức sống, trào dâng thành hương sắc âm thanh, náo nhiệt rộn rã tươi thắm trong buổi chiều tàn. biểu hiện qua một loạt các hệ thống động từ như “đùn đùn” trong “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”, biểu hiện sức sinh sôi mạnh mẽ đang căng tràn trong từng thớ vỏ của cây, cứ phun trào hết lớp này đến lớp khác. Không những thế “tán rợp giương” còn gợi ra Hình ảnh xum xuê, xanh tốt của tán cây hòe, chúng mạnh mẽ vươn ra phủ kín cả một khoảng không bao la. Rồi động từ “phun” trong câu “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ” cũng mang lại cảm giác tràn trề nhựa sống, chực chờ nảy nở, sinh sôi để tạo ra một màu đỏ rực rỡ của những hoa thạch lựu. Điều ấy càng làm cho bức họa ngày hè thêm phần sôi động, chứng minh sự vận động không ngừng nghỉ của thiên nhiên cuộc sống. bức họa thiên nhiên tiếp tục được biểu thị bằng câu “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”, “tiễn” ở đây là một từ Hán Việt có nghĩa là dư ra, như vậy có thể hiểu đầy đủ câu thơ là ao sen đã nồng nàn mùi hương, hay hoa sen trong ao đã bung nở rực rỡ, hương thơm ngát trời. Bên cạnh các động từ biểu thị sức sống tràn trề căng tràn của từng cảnh vật thì các từ láy diễn đạt âm thanh trong hai câu thơ “Lao xao chợ cá làng ngư phủ/Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương” cũng lại tiếp tục bổ sung cho bức họa đồ cảnh ngày hè sự sôi động náo nhiệt của cuộc sống trước buổi chiều tà. “Lao xao” ở đây chính là âm thanh ngã giá, đàm phán của người mua kẻ bán, tái hiện lại 1 cách sinh động cuộc sống của con người thông qua Hình ảnh “chợ cá làng Ngư phủ”, gợi ra sự nhộn nhịp, cuộc sống phong lưu ấm no của con người, chính do cảnh chợ phiên cuối ngày mới có cảnh lao xao tấp nập. Hòa chung với những tiếng đàm luận rộn rã phía xa của con người ấy là sự góp vui của dàn hợp xướng ve sầu cho ra những âm thanh “dắng dỏi” giòn tan, rộn rã, khuấy động cả không gian buổi chiều tà, làm cho khung cảnh thêm phần náo nhiệt, đượm sức sống, gạt đi cái u buồn, tẻ nhạt của hoàng hôn.
Phân tích Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi mới nhất
Một điều đặc sắc nữa của bài thơ là tác giả đã căng mở tất cả các giác quan để cảm nhận 1 cách tinh tế và tái hiện 1 cách xuất thần vẻ đẹp của bức họa thiên nhiên cuộc sống. Với xúc giác Nguyễn Trãi đã mang đến cho người đọc ấn tượng đầu tiên về bức họa thiên nhiên ấy là sự mát mẻ, dễ chịu, tạo cho người đọc ấn tượng về phong thái nhàn hạ, thoải mái của thi nhân khi tận hưởng từng cơn gió thuở ngày hè. Bên cạnh đó thị giác lại mang đến những ấn tượng sâu sắc về dáng hình của thiên nhiên với những màu sắc rực rỡ, đó là màu xanh lục của cây hòe rợp bóng, rồi nổi bật trên cái nền xanh thẫm ấy là màu đỏ rực rỡ của những đóa thạch lựu, và màu hồng dịu dàng của loài sen đã nở rộ trong đầm. Và cuối cùng cả ba gam màu ấy lại được tắm mình trong cái màu &ng nhàn nhạt của ánh hoàng hôn sắp tắt để đem đến một bức họa mùa hè tươi tắn, sức sống căng đầy mạnh mẽ, miêu tả sự yêu đời, yêu sống, nhìn cảnh vật bằng ái tình thiên nhiên tha thiết của tác giả Nguyễn Trãi. Thêm &o đó, sự cảm nhận tinh tế của khứu giác về mùi của loài hoa sen, một loài hoa vốn nhàn nhạt hương sắc, mà chỉ những con người thực sự có tấm lòng tha thiết với sen mới có thể cảm nhận được cái mùi hương thanh mát, đang bao trùm một cách nồng nàn, trong không gian khoáng đạt. Mùi hương ấy cũng gián tiếp mô tả cái vẻ đẹp của hoa sen &o mùa nở rộ, khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến Bức Ảnh một đầm sen hồng, không quá rực rỡ, nhưng cũng đủ khiến bức họa đồ thiên nhiên bừng lên những vẻ đẹp rộn rã, yêu đời từ hương sắc của loài hoa thanh cao này. Và cuối cùng bức họa đồ thiên nhiên cảnh ngày hè càng trở nên sôi động, náo nhiệt thông qua sự cảm nhận một cách tinh tế của nhà văn về âm thanh của con người của sự vật. Đó là tiếng “lao xao” bộc lộ sự nhộn nhịp trong đời sống sinh hoạt của con ngày và buổi chợ chiều, là tiếng ve “dắng dỏi” vang vọng khắp không gian, như nhắc nhở người ta về một ngày hè rạo rực. Việc sử dụng biện pháp đảo cấu trúc đưa các từ láy mô tả âm thanh lên vị trí đầu câu lại càng nhấn mạnh sự náo nhiệt của cuộc sống rộn ràng trong buổi chiều tà, gợi cảm giác vui tươi, hứng khởi của cuộc sống, làm lu mờ cái cảm giác vắng vẻ, hiu quạnh mà những buổi chiều trong thi ca thường mang lại. Như vậy việc huy động tất cả những giác quan của tác giả đã tái hiện một cách xuất sắc bức họa đồ thiên nhiên cuộc sống, cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi không chỉ đẹp mà còn có chiều sâu, biểu thị được tam quan của tác giả về cuộc đời, luôn nhìn sự sống bằng đôi mắt hứng khởi, tha thiết, diễn tả tấm lòng yêu thiên nhiên, cuộc đời tha thiết của tác giả.
Từ những cảm nhận tinh tế về bức họa đồ thiên nhiên cuộc sống, Nguyễn Trãi đã bộc lộ tấm lòng yêu dái ân quốc của mình qua hai câu thơ kết bài.
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếngDân giàu đủ khắp đòi phương”
Từ những quan sát về cuộc sống náo nhiệt của nhân dân nơi chợ cá làng Ngư phủ, tác giả đã mường tượng ra Hình ảnh cuộc sống vô cùng tươi đẹp, no ấm đầy đủ của nhân dân. Điều đó gợi ra trong tâm hồn của tác giả những niềm vui, niềm hạnh phúc khi chứng kiến cảnh quốc thái dân an, bởi vậy muốn có Ngu cầm của vua Nghiêu vua Thuấn để đàn ra khúc Nam Phong, ngợi ca cảnh thái bình thịnh trị của đất nước. bộc lộ niềm mong ước của Nguyễn Trãi về sự giàu có, phồn vinh của nhân dân giống như hai triều đại trong lịch sử. Đồng thời hai câu thơ còn biểu hiện sự mãn nguyện, chấp thuận của tác giả khi mong ước cả cuộc đời, với tư tưởng dơn nghĩa, hướng về về nhân dân nay đã trở thành hiện thực. Tất cả đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn cao quý của Nguyễn Trãi, dù là khi còn làm quan, còn được trọng dụng hay khi đã thất thế sa cơ thì tấm lòng của ông vẫn không một lần thay đổi. Tác giả luôn hướng trái tim mình về với nhân dân, với cuộc sống lao động thông thường dân dã, biểu đạt niềm yêu tha thiết với vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc đời. Nguyễn Trãi ấy, đã dành cả kiếp nhân sinh để lo nghĩ cho nhân dân, cho đất nước bằng những tư tưởng cao đẹp, bằng tấm lòng nhân hậu, nhân nghĩa, một lòng phụng sự cho Tổ quốc, cho dân tộc, thật đáng quý vô cùng.
Cảnh ngày hè là một bài thơ hay, thể hiện rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của tác giả Nguyễn Trãi, ở đó người ta không chỉ thấy hiện lên vẻ đẹp của bức họa đồ thiên nhiên rực rỡ, náo nhiệt căng tràn sức sống. Mà còn nhìn nhận được tấm lòng thiết tha của tác giả dành cho vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc, cả một đời người chỉ mong ước sự phồn hoa, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, thể hiện nổi bật tư tưởng chính nghĩa và tư tưởng vì nhân dân mà tác giả vẫn luôn hằng tâm niệm.
-HẾT BÀI 1-
Cảnh ngày hè không chỉ bộc lộ ái tình thiên nhiên, cuộc sống của người ẩn sĩ mà còn lé lộ tấm lòng thương dân, yêu nước của Nguyễn Trãi- một con người dành tất cả tâm huyết và cuộc đời cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Cùng khám phá bức họa đồ ngày hè cũng như vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ, các em có thể bài viết liên quan thêm: Phân tích bức họa đồ thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi trong Cảnh ngày hè, Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè, Nỗi lòng Nguyễn Trãi qua bài thơ Cảnh ngày hè, Cảm nhận bức họa đồ thiên nhiên trong bài thơ Cảnh ngày hè.
2. Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi hay, mẫu số 2:
Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, trong số đó có bài số 43 trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới. Bài thơ là bức họa đồ phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế.”Rồi hóng mát thuở ngày trường”Câu thơ hiện lên bức ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là tấm hình của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả cả ngày”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giươngThạch lựu hiên còn phun thức đỏHồng liên trì đã tiễn mùi hương”.
Bài mẫu Phân tích Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi lớp 10, ngắn
Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông tưng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán cây tỏa mênh mông che rợp bề mặt đất như 1 tấm trướng bao la căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cánh hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủDắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.
“Chợ” là Bức Ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi Bức Ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi.
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếngDân giàu đủ khắp đòi phương”.
“Dân giàu đủ”, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng bồn chồn và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. vậy chính vì như thế, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng &o đời sống nhân dân để mệnh danh cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có 1 tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có 1 cuộc sống ấm no.Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi ai của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng Ức Trai vẫn ngay ngáy “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân huệ, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng ân ân ân oán thù than, đau sầu.
3. Bài Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, mẫu số 3:
1. Đặt cho bài Bảo kính cảnh giới số 43, trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, cái tựa Cảnh ngày hè kể cũng phải. Phần lớn thơ thuộc chùm Bảo kính cảnh giới vẫn nghiêng về những gương báu tự răn mình, đúng như chủ đề chung của cả chùm. Dường như đó, bài 43 này, dù không phải không có cái ý răn mình, nhưng lại nghiêng nhiều về tức cảnh. Toàn thi phẩm là tâm tình nồng hậu của ức Trai trước cảnh tượng hưng thịnh của ngày hè. Dù được viết cách nay đã hơn sáu thế kỉ, nhiều ngôn từ đã trở nên xưa xa đối với người hiện đại, thậm chí kèm theo luôn phải có cả một bản chú thích lê thê đến gần 20 mục, nhưng Cảnh ngày hè vẫn dư sức vượt qua khoảng cách thời gian dằng dặc, vượt qua rào cản ngôn ngữ rậm rịt để đến được với người đọc bây giờ. Điều gì đã khiến cho bài thơ có được sức sống này? Sự tài hoa của ngòi bút chăng? vẻ tinh tế của tâm hồn chăng? Tầm vóc lớn lao của một tâm lòng chàng? Có lẽ không riêng một yếu tố nào, mà là sự kết tinh của tất cả thành một chỉnh thể thi ca sống động, một kiến trúc ngôn từ cô đúc dư vang.2. Cảnh ngày hè trước hết là một cảnh tượng rực rỡ và rộn rã. Nếu tuân theo nguyên lí “thi trung hữu họa”, người đọc hoàn toàn có thể cảm thụ thi phẩm như một bức họa. Một bức họa được vẽ bằng ngôn từ. Một bức họa nghiêng về gam màu nóng, theo lối phân loại của hội họa. Thật là gam màu đặc trưng của ngày hè.2.1. Hai câu đề, với những nét bút đầu tiên, đã đưa ngay cái không khí hè đến với người đọc:
“Rồi hóng mát thuở ngày trườngHòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Xem Thêm : Cà na là gì? Công dụng của trái cà na? 7 bài … – Điện máy XANH
Ngày hè hiện ra với một tâm thế, một thời gian, một không gian khá ăn nhập với nhau. Ba chữ Rồi hóng mát đã gợi ra Tấm hình một ức Trai trong dịp nhàn rỗi hiếm hoi nào đó đang hóng mát ngày hè. Nhưng ba chữ thuỷ ngày trường mới giàu sức gợi hơn. Ngày mà dài thì đúng là đã tóm được cai chênh lệch đêm ngắn, ngày dài khá đặc trưng của mùa hè. Nhưng có phải chỉ là chuyện thời lượng đơn thuần không? Hình như còn là chuyện tâm lí nữa. Khoảng thời gian nào mà lại có thể khiến một con người vốn ham đảm nhiệm việc xã tắc giang sơn này cảm nhận là “thuở ngày trường?” Thời ông đang làm rường cột bận rộn với chính sự giữa cung đình của một vị quan đầu triều ư? Không thể. Khi ấy, người say sưa hành sự khó mà cảm nhận về “ngày trường”. Vì thế, chữ “ngày trường” gợi ra những ngày nhàn cư mà chẳng thật thanh nhàn bên ngoài chính cuộc của ức Trai chăng? Mà đâu chỉ hiện trong nghĩa của chữ, tâm thế ấy như còn ẩn trong âm vang của lời. Chẳng phải thế sao? Câu khai mở đã gây một cảm giác lạ đối với người quen đọc thơ thất ngôn. Có một cái gì đó như là giao thoa của những cảm giác trái chiều: ngắn mà lại dài, mau mà lại khoan. Sao thế nhỉ? Có phải vì đó là một câu phá cách: lời chỉ có sáu tiếng (lục ngôn), tiết tấu chỉ có hai (3/3). Cả chuỗi lời thì ngắn, mỗi tiết tấu lại dài. Số nhịp thì dồn lại, mỗi nhịp lại trải ra. Sự co giãn này có hiệu quả gì đây? Hãy lắng nghe âm vang của nó:
“Rồi hóng mát/ thuở ngày trường”
Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè tuyển chọn
Chẳng phải nó tao ra một ngữ điệu khá khác biệt, chứa đựng những tình điệu dường như cũng trái chiều: vừa ân hận thúc lại vừa thong dong? Thong dong mà ân hận thúc, nhàn cư mà bận lòng, chẳng phải là cái tâm thế thường trực ỏ ức Trai hay sao? Có lẽ sẽ không ngoa khi nói rằng chính tâm thê này đã ngầm tìm kiếm cho nó kiểu câu trúc ngôn từ như thế trong câu khai mở! Người nghiên cứu hiện đại có thể gọi đó là sự tham gia sáng tạo của vô thức chăng?
2.2. Kết hợp câu đề thứ hai với câu thực ta sẽ thấy một thiên nhiên dồi dào sức sống được hiện lên qua sắc độ rực rỡ của thảo mộc hoa lá:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giươngThạch lựu hiên còn phun thức đỏHồng liên tri đã tiễn mùi hương”
bơ vơ tự không gian trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn của thi sĩ cũng di chuyển từ tầng không qua hiên nhà rồi xuống ao sen. Ở tầng nào của thiên nhiên, sức sống phía bên phía trong cũng như đang trào ra. Các tạo vật thiên nhiên không chịu tĩnh. Chúng động. Màu xanh lục lá hòe thì “đùn đùn” như cuộn lên từng khôi biếc, tán hòe thì “rợp giương” như cử lọng giương ô. Màu đỏ hoa lựu không lặng lẽ tô son điểm sắc, cũng không lập lòe dậy lên &i đốm lửa, mà nhất loạt phun trào thức đỏ, tựa pháo hoa hừng sáng cả hiên nhà. Từ dưới ao, hoa sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng chín ửng cùng mùi hương dậy lên bay tỏa không gian. Mật độ dậy của các động thái “đùn đùn”, “rợp giương”, “phun”, “tiễn”… đã tạo nên một sự sôi động đằng sau mỗi loài thảo mộc tưởng chừng tĩnh lại. Như thế, động thái mạnh lại được cộng hưởng bởi độ gắt của gam màu, tất cả làm dậy lên sức sống của thiên nhiên đang kì toàn thịnh.
Chưa hết. Chúng ta còn thấy Nguyễn Trãi tinh tế hơn nhiều. Thi sĩ đã bắt được một nhịp vận hành vô hình ân hận thúc, xô đẩy tạo vật nữa. Chỉ cần chú ý một chút thôi sẽ thấy điều này: thảo mộc thì tiếp nối liên tục từ cao xuống thấp, động thái thì liên tiếp từ trong ra ngoài, lá – hoa – hương thì tiếp ứng nhau, nhất là cái nhịp độ khẩn trương: Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Loài này đang thì loài kia đã, hô ứng nhau, chen bước nhau gợi ra được không khí các tạo vật đang đua tranh phô sắc, khoe hương.
Có lẽ cần dừng đôi chút về câu chữ ở đây. Trước hết, là chữ. Hiện có hai bản ghi khác nhau về câu thơ Hồng liên trì đã … mùi hương và do đó có hai cách hiểu khác. Một bản ghép là “tin”, nghĩa là hết mùi hương, diễn tả vẻ suy. Một bản chép là “tiễn”, nghĩa là đưa tỏa mùi hương, diễn tả vẻ thịnh. Đi liền với chữ, là cú pháp. Cặp quan hệ từ “còn”… “đã” trong cặp câu thực biểu đạt quan hệ cú pháp nào? Không ít người chỉ thây chúng biểu lộ quan hệ suy giảm: “đang còn”… “dã hét”. Từ đó đã dẫn tới việc hiểu nghĩa của chúng là Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng tiên tri đã tin (hết) mùi hương. Hiểu thế có phù hợp không?. Để làm sáng tỏ, ngoài những căn cứ về văn tự Nôm, có lẽ bắt buộc phải có thêm căn cứ về văn bản thơ và các quy luật nghệ thuật nữa. Trong nghệ thuật, có quy luật: tiểu tiết phục tùng tổng thể chi phối tiểu tiết. Cảm hứng chung của thi phẩm là về sự sung mãn toàn thịnh của ngày hè. Cho nên các Bức Ảnh (cả thiên nhiên lẫn đời sông) tạo nên tổng thể ở đây cũng phải nhất quán, mỗi chi tiết đều phải góp mình làm nổi bật cái thịnh. Xem thế, chữ “tin” ít có lí. Nó nói cái suy. Tổng thể nói thịnh, tiểu tiết sao lại nói suy? Rõ ràng, “tin” sẽ lạc điệu, phá vỡ hệ thống. Trái lại, chữ “tiễn” nói cái thịnh, mới cộng hưởng được với vẻ toàn thịnh ấy. về quan hệ cú pháp cũng thế. Cặp phó từ “còn”… “đã”… đâu chỉ nói về loại quan hệ suy giảm: “đang còn”… “đã hết”, mà nó còn dùng để chỉ loại quan hệ tăng tiến: “đang còn”… “đã thêm”. Trong tổng thể này, quan hệ phải là tăng tiến thì mới ăn nhập. bởi vì, nghĩa của hai câu thơ chỉ có thể là: Thạch lựu hiện còn phun thức đỏ/Hồng liên trì đã tiễn (đưa/tỏa) mùi hương. Hương sen, sắc lựu tiếp ứng nhau, chen đua nhau cùng hợp nên vẻ toàn thịnh của ngày hè.
2.3. Ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ là một đời sông rộn rã. Theo đó, bức họa đồ ngày hè toàn thịnh vốn đã đầy màu sắc giờ lại tràn ngập cả âm thanh:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủDắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Nghĩ cũng thú vị, chợ là một Bức Ảnh vô cùng điển hình của cuộc sống này. Lúc đương đông buổi chợ là Bức Ảnh vui của 1 cuộc sống sầm uất đi lên. Còn khi chợ tan là Bức Ảnh rã đám của 1 cuộc sống đương đi xuống. Chỉ cần nhìn &o diện mạo chợ, cũng có thể thấy được âm vang của đời sống. Âm thanh “lao xao” từ chợ cá làng ngư phủ đã nói lên vẻ sầm uất của cuộc đời bao quanh. Cả Bức Ảnh bóng tịch dương nữa. Nắng tắt, bóng tối dâng lên vây phủ bốn bề, âm thanh sinh hoạt cũng dần dần thưa thớt. Lúc tịch dương thì dù đó là miền sơn cước hay chốn chương đài, cũng đều khó tránh khỏi không khí quạnh hiu cô tịch.
Nhưng không khí ấy ở đây đã bị xua tan bởi nhạc ve. Tiếng ve gióng giả inh ỏi như một bản đàn làm cho hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Phải là một tâm hồn mở, một điệu hồn náo nức thì mới có thể nghe tiếng ve inh ỏi thành tiếng đàn cầm ve như thế. Từ làng ngư phủ xa xa của dân nghèo lớp dưới, đến lầu son gác tía của người lớp trên, chỗ nào cũng rộn rã vui tươi. Cái nhìn bao hàm đã thâu tóm được toàn, cảnh cuộc sống trong đôi nét bút tài hoa. Trước, vẽ thiên nhiên thì từ cao xuống thấp, giờ, vẽ đời sống lại trải từ thấp đến cao, từ xa lại gần. Lối viết đảo ngược cú pháp, đặt những âm thanh lao xao và dắng dỏi lên đầu mỗi câu khác nào như tạo nên những điểm nhấn. Ta ngỡ như người viết đang muốn phổ &o không gian cả một dàn âm thanh rộn rã. Cảnh hưng thịnh của ngày hè, nhờ thế, mà càng trở nên phồn thịnh hơn.
2.4. Nếu chỉ dừng lại ở cảnh không thôi, cũng đã phần nào thấy được lòng người vẽ cảnh. Phải, cảnh tượng ấy đâu chỉ nói với ta về sự tinh tế của một tâm hồn, đó còn là sự phấn chấn của 1 tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có hồn, đó còn là sự phấn chấn của 1 tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có dịp dược hiểu về tấm lòng ấy trực tiếp hơn qua chính lời ước ao bộc trực của thi sĩ:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếngDân giàu đủ khắp đòi phương”
Giá chỉ có cây đàn của vua Thuấn, ta sẽ gảy khúc Nam Phong cầu cho dân giàu đủ khắp muôn phương. Cặp câu kết này hé mở cho chúng ta về chí của Ức Trai. Người dám mang trong mình ước nguyện kia phải là ai vậy? Một thi sĩ đơn thuần thôi sao? Một công thần khanh tướng thôi sao? Những kẻ ấy dám mơ đến việc cầm trong tay cây đàn của một quân vương sao? Không. Trong đời, về phận vị, Nguyễn Trãi là một công hầu. Nhưng trong thơ, trong cái thế giới của những khát vọng riêng tư nhất, ông đã bộc lộ khát khao lớn ngang tầm với những bậc quân vương vốn là thần tượng của lịch sử. Điều này có gì là không chính đáng đâu. Và, đó là khát khao tầm cỡ Nghiêu Thuấn.
Thêm nữa, Nguyễn Trãi muôn gảy đàn chỉ để ca tụng cuộc sống no ấm bây giờ thôi sao? Không. Dù cảnh tượng bày ra nhỡn tiền kìa quả là hưng thịnh. Nhưng nó vẫn chưa khiến ông thỏa nguyện. Ông muốn cầm cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong để cầu mong cho dân đức phong lưu hơn nữa. Ông mong muốn có một cuộc sống thực sự thái bình. Đó là khát khao sâu kín và cháy bỏng suốt một đời Nguyễn Trãi. Vì nó ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng và tôn tộc của mình. Chẳng thế mà ông bắt buộc phải đúc nó &o trong một cchâu âu ngôn, một câu đột nhiên ngấn lại, như để ghim sâu điều đau đáu của cõi lòng. Thì đó là khát khao Nghiêu Thuấn của một con người suốt đời “âu việc nước” chứ sao!
Và, Cảnh ngày hè như thế, chẳng phải là sự hòa điệu tuyệt hảo giữa tâm hồn và nét bút của một đấng tài hoa với tấm lòng của một bậc minh vương lương tướng ư?
4. Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, mẫu số 4:
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng dành những lời trân trọng nhất “Nguyễn Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, cẳng đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại…” Vẻ đẹp ấy của hồn thơ Nguyễn Trãi đã được phác họa qua những vần thơ của “Cảnh ngày hè”, một trong số bài thơ của chùm thơ 61 bài “Bảo kính cảnh giới”. Ở đó, ta không chỉ bắt bắt gặp gỡ một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước thiên nhiên của một người nghệ sĩ mà còn thấy được 1 tấm lòng luôn cháy sáng vì nước vì dân của vị anh hùng dân tộc.Thiên nhiên vốn là mảnh đất vô cùng màu mỡ của biết bao thi nhân trung đại cày xới và cũng, là nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn Nguyễn Trãi .Nhà thơ sống giữa thiên nhiên, bầu bạn cùng thiên nhiên, và lấy từ thiên nhiên những bài học kinh nghiệm quý giá làm “gương báu răn mình” để rồi ghi lại trong tập thơ “Bảo kính cảnh giới”. Một nhân cách thanh cao “tỏa sáng tựa sao khuê”, một tấm lòng cao cả, vẫn luôn tha thiết với nhân dân, với đất nước dẫu trong tình cảnh ngặt nghèo bị nghi kị, dèm pha hay ngay cả khi có cuộc sống yên bình, nên thơ giữa thiên nhiên của Nguyễn Trãi đã đến với người đọc chính qua những vần thơ ấy. Tám câu thơ của “Cảnh ngày hè” đã góp thêm nét vẽ để bức chân dung tâm hồn của Ức Trai hiện lên rõ nét nhất.Ngay từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã dẫn chúng ta đến với một bức họa đồ thiên nhiên rực rỡ, tràn trề sự sống của mùa hè, đến với một không khí náo nhiệt, rộn ràng của cuộc sống thường ngày vẫn đang tiếp diễn.
Rồi, hóng mát thuở ngày trường
Câu thơ bắt đầu cho bài thơ tác giả đã giới thiệu về hoàn ctác động tác động “nhàn” bất đắc dĩ của mình.Lời thơ diễn tả sự nhàn hạ trong một ngày hè của một con người không bị vướng bận bởi điều gì với nhịp của chữ “rồi” tách riêng khỏi nhịp của câu thơ như nhấn mạnh sự rảnh rỗi của nhà thơ. Nhưng khi đọc sâu, ngẫm kĩ &o từng câu chữ ta lại cảm nhận được tiếng thở dài trong câu thơ. Cụm từ “thuở ngày trường” trong câu đầu có cùng nghĩa với “hạ nhật trường” trong một câu thơ của Cao Biền thời Đường:
Lục thu âm nồng hạ nhật trường(Cậy xanh bóng rợp ngày hè dài)
Bài thơ được viết trong thời gian Nguyễn Trãi an nhàn lui về ở ẩn xa dời chốn bon chen đầy cám dỗ của quan trường, và như thế nhà thơ đã có cơ hội để cảm nhận trọn vẹn cái “ngày hè dài” ấy. Thế nhưng liệu đó có phải chỉ là những cảm quan về thời gian, ngày tháng? Hay đằng sau hai chữ “ngày trường” cùng với nhịp thơ như trải dài ấy còn là tâm trạng anh hùng trữ tình, những nỗi niềm của Ức Trai chăng? Và phải chăng tất cả những tâm tư ấy đang dồn nén &o trong bức họa thiên nhiên ngày hè mãnh liệt và căng tràn sức sống trước mắt và được nhà thơ nâng niu ghi lại:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giươngThạch lựu hiên còn phun thức đỏ,Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Chỉ trong ba câu thơ hàm súc tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức họa đồ mùa hè rực rỡ với những gam màu đậm, tươi tắn cùng những Bức Ảnh đặc trưng của mùa hè. bao trùm lên bức họa ấy chính là những “chiếc lọng” xanh biếc của tán hòe đang bung sắc như làm dịu đi cái chói chang, gay gắt của nắng hè. Đặt điểm nhìn xuống thấp hơn, nhà thơ đã khéo léo đan cài màu đỏ rực rỡ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen đang tỏa hương thơm ngát bao phủ khắp không gian. Nếu thơ ca cổ điển ưa những gam màu trầm hơn là những sắc gắt, ưa tả tĩnh hơn tả động thì Nguyễn Trãi đã dám bước qua cái khuôn khổ ấy để thoát khỏi những bức tranh thanh đạm, tiêu sơ và để đến gần hơn với bức tranh cảnh ngày hè tươi vui, đầy sức sống. Nhà thơ không chỉ cảm nhận được hình sắc của thiên nhiên tạo vật mà còn nhận thấy một mạch sống đang ứa căng, tràn trề, đang đùn đùn phun ra những sắc xanh, sắc đỏ của hoa lá, cỏ cây. Thiên nhiên của Nguyễn Trãi hiện lên qua những động từ mạnh “đùn đùn”, “phun”, “tiễn” “giương” như đang trào dâng một sức sống nội sinh mãnh liệt, mạnh mẽ ẩn sâu bên trong mỗi tạo vật. Hòe không được miêu tả như một vật thể thông thường mà nó được đặt trong sự vận động, phát triển của tự nhiên. Ao sen cũng không chỉ gợi một thứ hương dịu nhẹ mà còn thể hiện sự bao trùm, sự chuyển động của mùi hương ấy khắp không gian. Đều lấy tâm điểm là những bông hoa thạch lựu đỏ như những đốm lửa nhưng nếu Nguyễn Du gợi tả được màu sắc qua phép điệp âm”lửa lựu lập lòe” trong câu thơ “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (Truyện Kiều) thì hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi còn có cả nhựa sống dồi dào bên trong đang “phun” tỏa, phát lộ ra ngoài. Cái sinh khí rực rỡ, viên mãn nhưng cũng rất thanh thoát ý vị ấy khác hẳn với sự nắng nóng nực của mùa hè mà các nhà thơ trong “Hồng Đức quốc âm thi tập” đã biểu lộ:
Nước nồng sừng sực đầu rô trỗiNgày nắng chang chang lưỡi chó lè
Phải chăng chính nhà thơ đã mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận cuộc sống, để phát giác ra cái thế giới bên trong đang tuôn tràn của thiên nhiên, và cái vận động không ngừng trong tự nhiên.
Nhưng trong thi của Nguyễn Trãi không chỉ có họa, có hương mà còn có cả những thanh âm muôn vẻ của cuộc sống thông thường.
Lao xao chợ cá làng ngư phủDắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Thiên nhiên không hề tối tăm, trầm lặng khi nắng chiều buông mà trái lại, rất rộn rã và sôi động. Nhà thơ đã đưa &o bức tranh của mình những hình ảnh vô cùng quen thuộc, gần gũi nhưng lại không đi theo khuôn sáo, lối mòn nào. Hai từ láy “lao xao”, dắng dỏi được đảo lên đầu mỗi câu thơ làm bật lên cái âm thanh sôi động, náo nhiệt, xóa tan không khí quạnh hiu, cô tịch lúc ‘tịch dương”. Cảnh phiên chợ – một dấu hiện của sự sống con người hiện ra trong câu thơ với tiếng người mua, kẻ bán, tiếng cười nói, tiếng chuyện trò gian thật an toàn và ấm áp! Nhà thơ không hề thoát tục, không hề xa dời cuộc sống mà là đang hướng lòng mình về với cuộc sống bình dị từ những âm thanh bình dị nhất. Nhà thơ như căng mở hết tất cả những giác quan cả thị giác, khứu giác, thính giác và cả những liên tưởng bất ngờ “dắng dỏi cầm ve”. Tiếng ve inh ỏi – một thứ âm thanh không xa lạ với mùa hè được ví như một cung đàn mùa hạ tấu lên một cách rộn ràng hòa chung với bản đàn rạo rực, ăn năn hận hả của nhịp sống căng tràn trong thiên nhiên. Lời thơ như diễn tả một cuộc sống đang sinh sôi, tiếp diễn ngay cả khi ngày sắp tàn, một khung cảnh thật êm đềm và thanh bình nơi làng quê. Cùng viết về mùa hè nhưng những cảm xúc trong mỗi bài thơ lại đem đến một mùa hè khác nhau.
Tháng tư đầu mùa hạTiết trời thực oi ảTiếng dế kêu thiết thaĐàn muỗi bay tơi tả
Nếu như ta cảm nhận được mùa hè rộn ràng, náo nhiệt trong những vần thơ Ức Trai thì mùa hè của Nguyễn Khuyến oi nồng và có phần u uất. Bởi, với “Cảnh ngày hè” Nguyễn Trãi đã cảm nhận thiên nhiên sự sống bằng chính sức sống dồi dào trong tâm hồn mình, bằng sự tha thiết với cuộc sống còn Nguyễn Khuyến đã mượn mùa hè để dãi bày những bức bối, u uất của mình đúng như tên bài thơ “Than mùa hè”. Thi nhân như đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống với một tâm hồn thiết tha yêu thiên nhiên để rồi từ đó thổi bùng lên khát vọng bấy lâu nay của một con người luôn hết lòng vì đất nước.
Xem Thêm : Ý nghĩa tên Linh Đan là gì? Tính cách, vận mệnh ra sao? – Eva
Sống giữa vòng tay an toàn của mẹ thiên nhiên, giữa cuộc sống “vô ưu vô tư” nhưng chưa giây phút nào Nguyễn Trãi quên đi bổn phận của mình:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếngDân giàu đủ khắp đòi phương
Sâu trong tâm khảm, Ức Trai luôn mang một nỗi niềm dân nước, một hoài bão về sự an thịnh như thời Đường Ngu nên đã mượn điển tích Ngu cầm để nói lên tấm lòng của mình. Liệu có phải nhà thơ muốn có cây đàn Ngu cầm để gẩy nên khúc Nam Phong để ngợi ca cảnh thái bình, thịnh trị đang hiện hữu mà tiếng lao xao của cuộc sống an ninh đã dẫn dắt đến tâm sự ấy? Hay đó chỉ là những ước mong, khao khát ở phía trước của nhà thơ về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của dân nước? Dù hiểu theo cách nào thì người đọc đều cảm nhận được tấm lòng “ưu dân ái quốc” của nhà Nguyễn Trãi mà trong một bài thơ khác, Ức Trai cũng đã nhắc tới sở nguyện này:
Dân Nghiêu Thuấn, vua Nghiêu ThuấnDường ấy ta đà phỉ sở nguyền
Những lời thơ vô cùng giản dị và mộc mạc được cất lên từ một tấm lòng rất đỗi thực tình, một con tim luôn cháy bỏng tình yêu với đất nước, với nhân dân. Nguyễn Trãi rảnh rỗi nhưng không hề thanh thản, ông nhàn thân nhưng không nhàn tâm, trong lòng nhà Nho chân chính ấy luôn ngay ngáy nỗi niềm dân nước:
Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưuHậu thiên hạ chi lạc ưu lạc
Bài phân tích bài Cảnh ngày hè chi tiết, đặc sắc
Nguyễn Trãi luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên bậc nhất với một niềm mong mỏi rất cao cả “khắp nơi không một tiếng oán hờn”. Nếu như với Nguyễn Bỉnh Khiêm “nhàn” là tránh xa phú quý quay về hòa hợp với thiên nhiên để giữ trọn cốt cách thì qua “Cảnh ngày hè”, vị nhân vật dân tộc đã khẳng định triết lí “nhàn” của mình: Sự nhàn rỗi, thảnh thơi luôn phải song hành với cuộc sống no đủ, bình yên. Chính kết cấu đầu cuối tương ứng của hai câu lục ngôn ở đầu và cuối tác phẩm đã khép mở hai tâm trạng tạo nên mạch hàm ẩn của toàn bài thơ.
“Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn với nhịp thơ đa dạng và biến hóa linh động. Bài thơ đã thoát khỏi tính quy phạm khuôn thước của vhọc hành trung đại bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh sinh động, qua cách miêu tả thiên nhiên và đặc biệt là việc sử dụng ngôn ngữ. Bằng các động từ mạnh, các từ tượng thanh được sử dụng liên tiếp làm cho bức tranh mùa hè không phải là hình ảnh tĩnh trên trang giấy mà căng tràn nhựa sống. Nguyễn Trãi đã đưa ngôn ngữ thơ ca về gần với ngôn ngữ đời sống, mở đường cho khuynh hướng dân tộc hóa, bình dị hóa của thơ ca Việt Nam sau này. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ đã được Nguyễn Trãi tái hiện một cách đầy chân thực và sinh động. Nhưng đọc bài thơ, ta không chỉ đơn thuần thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên mùa hè rực rỡ, sống động mà còn cảm nhận được vẻ đẹp phong phú, thanh cao của hồn thơ Nguyễn Trãi. Một hồn thơ đã bắt rễ sâu &o đời sống thiên nhiên, một cảm xúc thơ đã hòa nhịp với mạch sống nhân dân, dân tộc.
Nhà bác bỏ bỏ học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định rằng “Thơ khởi phát từ trong lòng người ta”. Quả thực không có những cảm xúc, những tâm sự sâu kín nén chặt, chất chứa trong lòng sẽ chẳng bao giờ có thơ. Qua “Cảnh ngày hè” ta không chỉ ngưỡng mộ hào kiệt của nhà văn hóa lớn mà ta còn nghe được tiếng lòng, tiếng yêu cuộc sống, tiếng yêu quê hương, dân tộc của Ức Trai tiên sinh tha thiết hơn bao hết.
5. Bài văn Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi lớp 10, mẫu số 5:
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời nhà Hồ và nhà Lê sơ Việt Nam. Ông làm quan triều đình được một thời gian song đã chậu sự về ở ẩn. Nguyễn Trãi viết rất nhiều thơ, để lại cho đời một khối tác phẩm đồ sộ nhưng phần lớn đã bị thất lạc sau án oan Lệ Chi Viên. Trong thời gian ở ẩn, ông không ngừng sác tác thơ ca, một trong số những bài thơ đặc sắc là Cảnh ngày hè . Cảnh ngày hè là bài thơ 43 trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi. Bài thơ là bức tranh mùa hè độc đáo nhưng cũng là niềm tâm sự của tác giả
Rồi hóng mát thủa ngày trườngHòa lục đùn đùn tán rợp giươngThạch lựu hiên còn phun thức đỏHồng liên trì đã tiễn mùi hươngLao xao chợ cá làng ngư phủDắng dỏi cầm ve lầu tich dương.Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếngDân giàu đủ khắp đòi phương.
Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn Đường luật rất rõ ràng với hai câu một chia thành bốn phần đề -thực-luận-kết. mở màn bài thơ là hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè để thấy được tấm lòng của Nguyễn Trãi dành cho dân, cho nước
Sống hòa mình trong thiên nhiên nên Nguyễn Trãi đã tinh tế phát hiện ra những vẻ đẹp thuần khiết mà nơi chốn triều đình, cung cấm đầy rẫy thị phi không thể xuất hiện được. Đó là:
Hòe lục đùn đùn tản rợp giương.Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Chỉ &i nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, Dường như cây lựu nở đầy những bông hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát &o hồn thi sĩ. Ba câu thơ nhắc đến ba loại cây: hòe, lựu, sen nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ nói đến cây? Dường như có cả con người lồng trong đó, hết sức bí mật. Các từ đùn đùn (dồn dập tuôn ra), giương (toả rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt nhịp 4/3. Hai câu thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động, rộn ràng. Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Bởi Nguyễn Du đã từng viết rằng
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Ở đây ta bắt gặp cảnh sắc thiên nhiên căng tràn sức sống cho thấy rằng lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời của nhà thơ rất mãnh liệt, đồng thời còn có ham muốn được cống hiến công sức của mình cho đời này thêm đẹp. Đời người người hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước?! Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lí tưởng chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì nhân dân hạnh phúc. Bởi hoa sen là một loài hoa cao quý, dẫu cho sống giữa đầm lây nhơ nhấp, thị phi nhưng vẫn mãi trong sạch, ngát hương dâng cho đời. Và vua Lê Thánh Tông đã có câu thơ tụng ca Nguyễn Trãi ” Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê.”
Bốn câu thơ trên Nguyễn Trãi miêu tả cảnh vật đang căng tràn nhựa sống thì hai câu thơ tiếp theo là chuỗi âm thanh thanh bình chốn thôn quê cùng hình ảnh con người xuất hiện:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,Dắng hỏi cầm ve lầu tịch dương.
Từ tượng thanh Lao xao đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp của làng ngư phủ. Lao xao – tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chất phác. Những âm thanh lao xao ấy hòa &o tiếng ve kêu dắng đỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ Bây Giờ, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.
Dễ có Ngu cầm đàn một tiếngDân giàu đủ khắp đòi phương
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể sang chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy là một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời. Giấc mơ, đó là giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc. Trước hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu “Vận nước như mây cuốn / Trời Nam mở thái bình / Vô vi trên điện các / Xứ xứ dứt đao binh”. Vận nước có rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều gì nhiễu nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm, vị vua hiền minh Lê Thánh Tông cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn:
Nhà nam nhà bắc đều có mặtLừng lẫy cùng ca khúc thái bình
Bây thời điểm lúc bấy giờ, ưu tư thế cuộc, nhìn đời – từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân. Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư tưởng “thân dân” (dĩ dân vi bản) từng được vạch rõ trong Bình Ngô Đại Cáo – “Việc nhân tình cốt ở yên dân”. Đó là tư tưởng lớn. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy từng sôi sục trong động thái, khắc khoải trong tâm tưởng, rát bỏng trong thi ca. Trong cả bài thơ, đến tận dòng cuối cùng, chữ “dân” mới bật ra, song chính là cái nền tư tưởng, tình cảm của tác giả, cái hồn của bài thơ. Đó chính là sợi chỉ dỏ xâu chuỗi cả 8 câu thơ lại.
Cảnh ngày hè là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi về hiệ tượng thơ. Câu thất ngôn xen lục ngôn, các vế đối rất chỉnh, cách sử dụng từ láy rất tài tình. Để tăng sức biểu hiện của các tính từ và động từ, tác giả đem chúng đặt ở đầu câu. Đây là bài thơ tả cảnh ngày hè tràn đầy sức sống. Và Cảnh ngày hè là một bài thơ tả cảnh ngụ tình xuất sắc của Nguyễn Trãi. Bức tranh mùa hè tràn ngập màu sắc tươi tắn cùng âm thanh sinh động gợi lên hồn thơ yêu đời, phong phú xúc cảm của thi nhân. Nhưng ngụ ý qua từng câu thơ chính là bức tranh cảnh ngày hè đó là bức tranh thi nhân mong muốn nó mãi trường tồn để dân giàu, nước mạnh, thái bình muôn nơi. Tấm lòng nhà thơ đầy tình nghĩa và cao cả khiến người đời kính trọng, dân chúng hàm ân bởi những đóng góp của ông dành cho đất nước. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì trong lòng Nguyễn Trãi vẫn mãi hướng về nhân dân, một lòng trung quân ái quốc.
-HẾT-
Sau khi đã nắm vững kiến thức của bài thơ Cảnh ngày hè, để chuẩn bị tốt nội dung cho bài học tiếp theo, các em không nên bỏ qua nội dung hướng dẫn Soạn bài Tóm tắt văn bản tự sự (dựa theo nhân vật chính), Soạn bài Viết bài làm văn số 3 (bài làm ở nhà) đã được giới thiệu tại Thuthuat.Taimienphi.vn.
https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-bai-tho-canh-ngay-he-cua-nguyen-trai-40324n.aspx
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp