Phân tích Hoàng Lê nhất thống chí (13 mẫu) – Văn 9 – Download.vn

Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Phân tích Hoàng Lê nhất thống chí (13 mẫu) – Văn 9 – Download.vn. Bài viết phan tich hoang le nhat thong chi tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.

TOP 13 bài Phân tích Hoàng Lê nhất thống chí siêu hay, kèm theo 2 dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc hơn về chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của người hero Nguyễn Huệ.

Bạn Đang Xem: Phân tích Hoàng Lê nhất thống chí (13 mẫu) – Văn 9 – Download.vn

Đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí đã cho chúng ta thấy được tinh thần gan dạ, lòng yêu nước mãnh liệt để học hỏi và phấn đấu noi theo. Lòng yêu nước chính là sức mạnh vĩ đại chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 9.

Dàn ý phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí

Dàn ý 1

I. MỞ BÀI

– Trong nền vhọc tập cổ Việt Nam, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí được coi là một cuốn tiểu thuyết tiêu biểu viết bằng chữ Hán của Ngô gia văn phái. Tác phẩm là một bức họa đồ hiện thực bao la lớn về xã hội phong kiến Việt Nam khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX. Mười bảy hồi của tác phẩm đã ghi lại cuộc sống thối nát của vua quan triều Lê – Trịnh và phong trào phát triển của phong trào Tây Sơn với hình tượng người hero Nguyễn Huệ đánh thắng thù trong giặc ngoài.

– Hồi thứ 14 của tác phẩm đã kể lại lần thứ 3 ra Bắc của Nguyễn huệ với chiến công thần kỳ &o bậc nhất trong lịch sử đại phá 20 vạn quân Thanh chỉ trong 10 ngày và ở đây, hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người mãi mãi là Bức Ảnh đẹp trong những trang lịch sử chói ngời của dân tộc.

II. THÂN BÀI

1. Trước hết ở Quang Trung là Bức Ảnh vị hoàng đế có trí tuệ sáng suốt, có động thái mạnh mẽ quyết đân ân ân ân ân ân ân ân ân ân ân ân ân ân ân ân ân oán thù thù thù thù thù thù thù thù thù thù thù thù thù thù thù thù thù.

– Sự sáng suốt của Nguyễn Huệ chính là ở việc nhận định tình hình và quyết định lên ngôi hoàng đế:

+ Khi 20 vạn quân Thanh tràn &o đất Bắc Hà chiếm giữ kinh thành Thăng Long thì lúc đó Nguyễn Huệ mới chỉ là Bắc Bình Vương đang ở Phú Xuân. Nhận được tin cấp báo Nguyễn Huệ đã định “thân chinh cầm quân đi ngay” song trước lời bàn của các tướng sĩ, ông đã nhận thấy rằng rất cần được lên ngôi hoàng đế, chính vị niên hiệu rồi mới đàng hoàng xuất quân. Ở cương vị của Nguyễn Huệ, việc tiếp thu lời bàn của các tướng sĩ, biết lắng nghe và thực thi những điều ngoài ý định của mình, đó chính là một sự sáng suốt, sự sáng suốt của vị chỉ huy biết làm gì để đem đến những lợi chung cho sự nghiệp. chính vì như thế chỉ trong một ngày Nguyễn Huệ đã làm xong 2 việc lớn: lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và cũng ngày 25 tháng Chạp, Mậu Thân, đã kịp thời hạ lệnh xuất quân. Việc lên ngôi trong tình thế cần kíp ấy đủ để thấy sự sáng suốt trong trái tim của con người luôn biết vì đất nước.

+ Quang Trung còn là người mưu lược sáng suốt khi nhận định tình hình của giặc, của ta. Ta hãy nghe Quang Trung dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ra Bắc: “trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng …”. Và để khích lệ lòng yêu nước của tướng sĩ, để nêu bật chính nghĩa của ta và sự phi nghĩa của địch, ông đã dẫn ra một hệ thống song hành liên tục: cứ một triều đại phong kiến phương Bắc thì đi liền với một hero kiệt xuất, tiêu biểu phương Nam. Rồi để giúp tướng sĩ nhận ra chân tướng “Phù Lê diệt Trịnh” của Tôn Sĩ Nghị, nhận ra dã tâm, bản chất xâm lược của quân Thanh. Ông khéo léo khích lệ tướng sĩ khi ca ngợi truyền thống đánh giặc của tổ tiên để từ đó mà kêu gọi tướng sĩ “những kẻ có lương tri, lương năng hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn”. Lời lẽ phân tích của đấng minh quân thật rõ ràng, lập luật thật chặt chẽ khiến ta nhớ tới “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn và nhớ tới “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt. Có thể nói Quang Trung thật sáng suốt khi nhận thấy rõ bản tính của kẻ thù và cũng rất sáng suốt khi khơi gợi lòng yêu nước vậy chính vì bởi vì bầy tớ nhất nhất “xin vâng lệnh không dám hai lòng”.

– Ở Quang Trung còn là sự quyết đoán mưu lược trước mọi biến cố, quyết đoán trong việc nhìn nhận bề tôi, ở cương vị hoàng đế việc nhìn nhận bề tôi là một điều quan trọng. Qua lời lẽ phân tích của ông đối với Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, những người mà đáng lẽ ra đang có tội “quân thua chém tướng” song Quang Trung rất hiểu năng lực của họ bởi vì ông đã nhận rõ các tướng lĩnh của mình đều là “hạng võ dũng, chỉ biết bắt bắt bắt bắt bắt bắt bắt gặp gỡ gỡ giặc là đánh, đến việc tuỳ cơ ứng biến là không có tài”. Vì thế ông đã xếp Ngô Thì Nhậm hỗ trợ cho họ. Hiểu rõ tướng lĩnh của mình, Quang Trung không phạt họ mà trái lại họ còn yên ủi động viên họ “biết lo xa biết làm cho kẻ địch chủ quan kiêu ngạo”. Cách hiểu người, dùng người đến mức tri âm tri kỷ mà sáng suốt như thế chỉ có ở Quang Trung. Nhờ có sự sáng suốt thông thạo bề tôi tường tận, ân uy đúng mực như vậy bậc anh quân đó đã tập hợp, tổ chức được lực lượng giống như Lê Lợi xưa kia:

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phớiTướng sĩ một lòng phu tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”

– Ở Quang Trung ta còn thấy một sự sáng suốt thật đáng quý, đó là tầm nhìn xa trông bao la rãi. Cho dù quân Thanh đang đóng gần hết đất Bắc Hà nhưng nhờ sự sáng suốt tự tin, mưu lược tiến đánh đã sẵn “mười ngày đánh đuổi người Thanh”. Nhưng đó không phải là cái đích lớn mà đích lớn Quang Trung tính đến đó là “khéo lời lẽ để dẹp yên binh đao” chính vì Nguyễn Huệ đã sáng suốt chọn Ngô Thì Nhậm &o việc giao dịch với nhà Thanh sau này. Nhưng tầm nhìn của ông còn xa hơn nữa. Ngay cả khi ngồi trên lưng voi trước trận đánh, Quang Trung đã chuẩn bị kế hoạch cho mười năm sau, quả là một nhà chính trị văn hoá, một đấng minh quân, một người hero tài trí có tầm nhìn chiến lược sâu sắc biết bao.

* Qua việc phân tích tình hình ta, địch, qua việc chuẩn bị kế hoạch 10 năm xây dựng Đại Việt ta có thể khẳng định Quang Trung là con người có tài trí sáng suốt. Đó là điều cần thiết ở một đấng minh quân mà không phải ai cũng có được.

2. Dưới ngòi bút của tác giả Ngô gia văn phái, hero người anh hùng áo vải còn mang vẻ đẹp của vị tướng có tài thao lược hơn người.

+ Tài thao lược của Nguyễn Huệ ở đoạn trích hồi thứ 14 đó là sự nhanh nhẹn của một nhà quân sự, một bậc kỳ tài trong việc dùng binh. Dưới sự sáng suốt trong việc chỉ huy của Quang Trung, đội quân của ông đã lớn mạnh không ngừng. Sáng suốt trong việc nhận định tình hình của giặc để rồi chớp lấy thời cơ, tổ chức campaign thần tốc có một không hai trong lịch sử. Nghệ thuật cầm quân và hào kiệt quân sự, tài thao lược của Quang Trung chính là ở bình diện thần tốc bất ngờ.

+ Tài thao lược của Quang Trung biểu hiện ở bình diện chỉ huy thần tốc mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa hết ngạc nhiên: tại sao Nguyễn Huệ có thể vượt qua quãng đường từ Phú Xuân đến Thăng Long chóng vánh, hơn bốn trăm dặm mét trong bốn ngày, một tốc độ di chuyển quân thần tốc và cũng một tốc độ tuyển quân thần kỳ: cứ 3 suất đinh thì lấy 1. Rồi lạ chỉ trong một ngày 30 Tết mà có thể tổ chức được cho nô lệ ăn Tết rồi kịp ban bố lời dụ về chủ quyền đất nước. Đó cũng là một ngày đủ để chia thành 5 đoạ quân tiến về Thăng Long rồi dám dự tính đánh tan quân Thanh &o ngày 7 tháng giêng. Tất cả những công việc cao lớn ấy chỉ diễn ra trong thời gian tính bằng ngày. Không phải là một bậc kỳ tài thì không thể làm nổi, đó chính là điều kỳ diệu của Quang Trung.

+ Tài thao lược của Quang Trung còn biểu hiện rõ khi chọn cách đánh bất ngờ, biết giặc kiêu căng khinh suất là tổ chức đánh ngay, biết chọn tướng chỉ huy, hoạch định hướng tiến công, phối hợp giữa các cánh quân. Kết quả tài thao lược được biểu hiện rõ ở đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi khiến quân Thanh không kịp trở tay. Cách đánh bất ngờ thần tốc táo bạo đến mức khi quân Tây Sơn kéo &o thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không hề được tin cấp báo . vì thế quân tướng nhà Thanh nhìn thấy quân Tây Sơn như nhìn thấy “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Sự thảm bại của quân Thanh là kết quả tất yếu (so sánh với Bình ngô đại cáo)

“Thành Đan Xá thây chết đầy núi ….”

Quang Trung cùng với đội quân của mình đánh dấu thêm mốc son chói lọi trong những trang lịch sử hào hùng của dân tộc.

3. Bức Ảnh Quang Trung – khí phách hào hùng lẫm liệt.

Quang Trung cưỡi voi chỉ huy chiến dịch thần tốc nhưng phong thái ung dung tỉnh táo khác thường. Quang Trung đã tự tin khẳng định 10 ngày đánh đuổi quân Thanh biểu đạt trí tuệ sáng suốt, biết làm chủ trong mọi tình thế. Chính phong thái ung dung tự tin của con người có tài thao lược đã tô đậm vẻ đẹp khí phách hào hùng.

Dưới những trang văn hào hùng mang tính sử thi của đoạn trích, ta như nhìn thấy Bức Ảnh Quang Trung khoác áo bào đỏ cưỡi trên lưng voi chỉ huy 1 đội quân dàn trận chữ “Nhất” tiến &o Thăng Long.

Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiếnTrăm họ chật đường vui tiếp nghênh.

– Trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã có nhiều ông vua từng thân chinh cầm quân đánh giặc nhưng vừa nắm quyền chỉ huy, vừa quyết đoán phương lược, vừa đốc xuất chiến dịch và đi với một mũi tiến công xông pha nơi hòn tên mũi đạn thì chỉ có một Quang Trung. Trong ánh sáng lờ mờ của buổi ban mai, trong khói toả mù trời của súng đạn, Quang Trung với khí phách lẫm liệt, hào hùng đã khắc tạo một hình tượng đẹp trong chiến trận. Bức Ảnh ấy đã được sử sách còn ghi lại “ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu” tấm áo bào đỏ của quang Trung sạm đen khói súng. Quang Trung đã trở thành một hình tượng đẹp đẽ về người anh hùng với khí phách hiên ngang lẫm liệt trong vhọc tập cổ Việt Nam, trở thành một tượng đài bất hủ trong vhọc tập cổ dân tộc.

– Các tác giả Ngô gia văn phái là những cựu thần, chịu ơn sâu nghĩa nặng của nhà Lê nhưng họ đã không thể bỏ lỡ sự thực là ông vua nhà Lê hèn yếu cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc. Họ là những người tôn trọng sự thực lịch sử và có ý thức dân tộc bởi thế họ viết thực và hay về người hero dân tộc Quang Trung.

III. KẾT LUẬN

– Ở tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 là một sự cống hiến vô giá của các tác giả về những trang tư liệu hào hùng trong lịch sử dân tộc qua việc khắc hoạ vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Quang Trung. Bức Ảnh Quang Trung trong đoạn trích giống như một thứ ánh sáng trong những phút đầu còn le lói nhưng vẫn sáng ấy, mỗi lúc một cao bát ngát, lan toả để rồi khắc sâu &o tâm khảm chúng ta vẻ đẹp trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người và một khí phách hào hùng lẫm liệt.

– Vẻ đẹp của Quang Trung trong khúc khải hoàn ca chiến thắng còn in dấu trong những câu thơ của Ngô Ngọc Du một nhà thơ đương thời:

“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồngQuân vua một giận oai bốn phươngThần tốc ruổi dài xông thẳng tớiNhư trên trời xuống ai dám đương …”

Dàn ý 2

I. Mở bài:

  • Giới thiệu bao hàm những nét tiêu biểu nhất về nhóm tác giả Ngô gia văn phái: Đây là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì
  • Giới thiệu về tiểu thuyết chương hồi Hoàng Lê nhất thống chí và đoạn trích: Đây là một tiểu thuyết khắc họa chân thực, đầy đủ những bất định xã hội trong 1 thời kỳ lịch sử của đất nước, đoạn trích hồi thứ 14 đã đưa đến những khắc họa đặc sắc về hình tượng vua Quang Trung cùng sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận ai oán của vua tôi Lê Chiêu Thống

II. Thân bài

1. Hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung

* Một người biện pháp biện pháp biện pháp động thái mạnh mẽ, quyết đoán

  • Nghe tin giặc chiếm Thăng Long mà không hề nao núng, đích thân cầm quân đi ngay
  • Trong vòng hơn tháng, làm được rất nhiều việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi và thân chinh cầm quân ra Bắc

* Một con người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén

– Trí tuệ sáng suốt và nhạy bén trong việc nhận định tình hình địch và ta

  • Quang Trung đã vạch rõ âm mưu và tội ác của kẻ thù xâm lược đối với nước ta: “mấy phen cướp bọc nước ta, giết dân ta, vơ vét của cải”…
  • Khích lệ tinh thần tướng sĩ dưới trướng bằng những tấm gương anh dũng
  • Dự kiến được một số người Phù Lê có thể thay lòng đổi dạ nên có lời dụ với bầy tớ vừa chí tình vừa nghiêm khắc

– Trí tuệ sáng suốt và nhạy bén trong xét đoán bề tôi:

  • Trong dịp hội quân ở Tam Điệp ta thấy Quang Trung nhận định tình hình sáng suốt để đưa ra lời ngợi khen cho Sở và Lân
  • Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao sự “đa mưu túc trí”

⇒ Dùng người sáng suốt

* Một con người có tầm nhìn xa trông bát ngát và tài thao lược hơn người

– Tầm nhìn xa trông mênh mông:

  • Mới khởi binh nhưng đã khẳng định “phương lược tiến đánh đã tính sẵn”
  • Đang ngồi trên lưng ngựa mà đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm tới ta hòa bình

– Tài thao lược hơn người biểu đạt ở cuộc hành quân thần tốc mà đội quân vẫn chỉnh tề

2. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh

  • Hình ảnh Tôn Sĩ Nghị kiêu căng, tự mãn, chủ quan, kéo quân &o Thăng Long mà không đề phòng gì ⇒ Tướng bất tài
  • Khi quân Tây Sơn đánh &o, “tướng sợ mất mật”, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp…chuồn trước qua cầu phao”
  • Quân sĩ xâm lược lúc lâm trận thì sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết….

⇒ Kể xen lẫn tả thực cụ thể, sống động, ngòi bút miêu tả khách quan

3. Số phận thảm bại của bọn vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân

  • Khi có biến, Lê Chiêu Thống vội vã “chạy bán sống bán chết”, cướp cả thuyền dân để qua sông, luôn mấy ngày không ăn, may có người thương tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn
  • Đổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt
  • Sang Trung Quốc, vua phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống người Mãn Thanh và cuối cùng gửi gắm xương tàn nơi đất khách

⇒ Số phận tất yếu cho một người đứng đầu đất nước nhưng lại bán nước hại dân

III. Kết bài:

  • bao hàm lại những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công về nội dung của tiểu thuyết chương hồi: Cách kể chuyện chân thực, sinh động, khắc họa hero rõ nét…
  • Liên hệ thể hiện suy nghĩ bản thân về hình tượng Nguyễn Huệ, chân dung kẻ thù và vua quan Lê Chiêu Thống, từ đó đưa ra bài học kinh nghiệm nhận thức, động thái

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 1

Chiến tranh đã khép lại nhưng trong sử sách nước nhà vẫn còn tô đậm dấu ấn của trận Ngọc Hồi – Đống Đa với chiến thắng thần tốc, vang dội đất trời đã khiến chúng ta nhớ đến một vị vua tài ba, gan lì đó chính là vua Quang Trung. Tuy tương quan lực lượng chênh lệch nhưng nhờ có những vị tướng giỏi với tài điều binh khiển tướng đã giúp cho quân dân ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. bởi thế, nhóm tác giả Ngô gia văn phái trong “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện lại hoàn cảnh nước ta khoảng 30 năm cuối thế kỉ 18, đặc biệt là qua đoạn trích hồi thứ 14 ta đã thấy được hình tượng vua Quang Trung và sự thất bại của quân bán nước và cướp nước.

Nhóm tác giả Ngô gia văn phái gồm có hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du. Ngô Thì Chí (1753 – 1788) là em ruột của Ngô Thì Nhậm, ông từng làm quan dưới thời vua Lê Chiêu Thống và tuyệt đối trung thành với nhà Lê. Có nhiều nguồn tài liệu cho rằng ông là tác giả của 7 hồi đầu của “Hoàng Lê nhất thống chí”. Ngô Thì Du (1772 – 1840) là bạn bè chú bác bỏ bỏ bỏ ruột của Ngô Thì Chí tuy học giỏi nhưng không đỗ đạt gì. Ông làm quan dưới thời nhà Nguyễn đến năm 1827 thì về nghỉ và là tác giả của 7 hồi tiếp theo của “Hoàng Lê nhất thống chí”. Đoạn trích được học là hồi thứ 14 của “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện lại chân thực Bức Ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, đồng thời cho thấy sự thảm bại của tướng nhà Thanh và số phận ai oán của vua tôi Lê Chiêu Thống.

Trong tác phẩm, vua Quang Trung – Nguyễn Huệ được miêu tả sắc nét với tài cầm quân “bách chiến bách thắng”, có tính quyết đoán và nhiều phẩm chất tốt đẹp khác. Ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến của thuộc hạ để hiểu lòng dân, lên ngôi vua giữ lòng người rồi mới xuất quân ra Bắc chiến đấu. Khi đến Nghệ An ông lại cho với người cống sĩ &o để hỏi rằng chuyến đi này của ông liệu thắng hay bại cho thấy rằng ông làm mọi việc là vì dân cho nên việc nhỏ nhất cũng phải theo ý kiến của dân. Khi nghe vị cống sĩ trả lời “Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan” thì vua Quang Trung “mừng lắm” vì sự quyết tâm này của ông đã được nhân dân ủng hộ. Ông lập tức cho người kén bộ đội và chỉ trong một thời gian rất ngắn, nhà vua đã có “hơn một vạn quân tinh nhuệ” trong tay. Nhờ có trí tuệ nhanh nhạy, sáng suốt hơn người, nhạy bén trước thời cuộc và vô cùng khéo léo nên ông đã thuyết phục được các binh sĩ “không dám hai lòng”. Khi nói với các binh sĩ, ông đã cho họ ngồi cho thấy rằng ở đây không hề có sự phân biệt giữa vua và bộ đội. Sau khi lấy lịch sử từ các triều đại trước ra để cho binh sĩ thấy nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống trị ngoại bang, ông không quên nhất định bắt buộc phải trừng phạt kẻ phản bội khiến cho các binh sĩ càng thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc hơn. Nhờ &o ý chí quyết chiến quyết thắng, có tầm nhìn xa trông mênh mông, khao khát hòa bình nên quân Lam Sơn đã giành chiến thắng “thần tốc” ở trận Ngọc Hồi. Lời hứa hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì &o thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng của ông được chứng minh bằng tài điều binh khiển tướng như thần. Ông đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn công làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ướt để tấn công làng Ngọc Hồi đã khiến cho quân Thanh hoàn toàn bất ngờ, khi chúng biết được tin tức thì đã không thể chống cự được nữa, chỉ biết giẫm đạp lên nhau mà chạy. Dựa &o những chi tiết trên, chúng ta có thể thấy rằng vua Quang Trung là một vị hero dân tộc anh dũng, tài trí, giàu lòng có nhân, bậc nhân kiệt quân sự và cũng chính là linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn , của chiến thắng vĩ đại.

Khi nghĩa quân Lam Sơn giành chiến thắng thì cũng là lúc quân tướng nhà Thanh thất bại thảm hại và bè lũ bán nước hại dân Lê Chiêu Thống phải gánh chịu số phận bi thiết. Quân Thanh thì có tướng bất tài Tôn Sĩ Nghị luôn kiêu căng, tự mãn chủ quan kéo quân &o xâm chiếm thành Thăng Long chỉ chăm chú việc yến tiệc vui mừng mà không đề phòng bất trắc, “sợ mất mật”, “ngựa không kịp đóng yên”, “người không kịp mặc áo giáp” mà vội &ng chuồn trước. Quân sĩ thì vô dụng cho nên khi quân Tây Sơn đánh &o thì bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, chúng tham sống sợ chết đến mức tranh nhau qua cầu, xô đẩy nhau rơi xuống nước chết nhiều đến nỗi nước sông Nhị Hà cũng bị tắc không thể chảy được. Vua tôi Lê Chiêu Thống thì chỉ biết chầu chực, cầu cạnh, luồn cúi dựa &o thế lực quân Thanh, chạy bán sống bán chết khi nghe tin quân Tây Sơn đuổi kịp và phải trốn sang Tàu. Đó cũng chính là số phận nhục nhã, hèn hạ của vua tôi Lê Chiêu Thống nói riêng và của toàn bộ lũ bán nước và cướp nước nói chung.

Tác giả đã lựa chọn trình tự kể theo diễn biến các sự kiện lịch sử, ngôn ngữ kể, tả chân thực, gây ấn tượng mạnh đã bộc lộ thái độ của mình với từng đối tượng khác nhau như vua Quang Trung, quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống. Nhịp điệu nhanh, ân hận hận hả ẩn chứa sự hả hê, sung sướng trước chiến thắng oanh liệt của vua Quang Trung và sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Nhịp điệu có phần chậm hơn, không giấu giếm được sự ngậm ngùi, xót thương khi miêu tả tỉ mỉ cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống vì họ vốn là những cựu thần của nhà Lê. Đoạn trích đã miêu tả quan điểm lịch sử đúng đắn, tinh thần yêu nước thương dân của nhóm tác giả và từ đó lên án lũ bán nước, cướp nước.

Qua đoạn trích trên, nhóm tác giả đã đem đến cho người đọc một bức tranh “toàn bích” về vị anh hùng oai phong, lẫm liệt và tài giỏi Quang Trung. Đó cũng chính là tấm gương sáng để chúng ta cần học hỏi và noi theo về tinh thần gan dạ, yêu nước. Lòng yêu nước chính là sức mạnh vĩ đại giúp chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 2

Hoàng Lê nhất thống chí, bộ sách của dòng họ Ngô Thì ở làng tả Thanh Oai, một bộ sách ghi lại nhiều sự kiện lịch sử, trong đó có vua Quang Trung đại phá hơn ba mươi vạn quân Thanh, một tác phẩm đưa con người ngược lại quá khứ để thấy được cuộc sống, xã hội thời bấy giờ và hòa mình &o chiến thắng vẻ vang hào hùng, đắm mình trong không khí bừng bừng lịch sử đó.

Ngô Gia Văn Phái đã tái hiện chân thực hero lịch sử Quang Trung, người có công cao lớn, một vị anh hùng của dân tộc trong chống ngoại xâm, giữ gìn đất nước, Quang Trung hiện lên trong tâm trí người đọc là một con người mạnh mẽ, quyết đoán, tài trí song toàn, xả thân vì đất nước, xả thân vì dân tộc, đoán trước được những gì sẽ xảy ra với nhân dân ta khi nghe tin quân Thanh tấn công &o miền Bắc đất nước ta, nhận thấy được mối nguy hại cận kề, sự tàn khốc mà quân Thanh sẽ gây ra cùng với sức mạnh của chúng ông đã lên ngôi hoàng đế tự mình dẫn quân ra Bắc ngăn ngừa mối nguy hại đó, một con người tài ba có tài thao lược, con người có thể thấu hiểu lòng dân, thấu hiểu lòng binh sĩ, những lời lẽ của ông khích lệ mạnh mẽ ái tình dân tộc, sức mạnh, nỗi khát khao trong lòng binh sĩ. Không chỉ thế ông còn có tầm nhìn xa trông bát ngát, biết cách chọn người tài, đứng đầu nhưng vẫn lắng nghe ý kiến từ nhiều phía để có cái nhìn đúng đắn nhất về sự việc.

Đặc biệt mưu lược hơn người của Quang Trung mô tả trong cách ông cầm quân, cách mà ông lãnh đạo binh sĩ của mình tiến công thần tốc ra Bắc, cùng với chiến thuật được lên trước đó vô cùng tinh vi, không có một kẽ hở nào trước cuộc tấn công quân Thanh ở Ngọc Hồi, sự tư duy khi ông cho người ghép ván, lấy rơm dấp ván đánh &o tâm lí quân địch khiến chúng hoảng sợ dẫm đạp lên nhau chạy về nước trước sự xuất hiện bất ngờ của quân ta, tính chất bất ngờ là vô cùng quan trọng trong trận thắng lần đó, sự kiêu căng chủ quan vì sức mạnh của bản thân mà coi thường quân dân ta đã dẫn tới thất bại của quân Thanh. Lúc quân thanh còn kiêu ngạo cả tướng lẫn quân cũng là lúc lực lượng của ta chuẩn bị chu đáo, biến đổi từng ngày một, không khinh thường địch, tinh thần dân tộc đồng lòng của nhân dân cũng là nguyên nhân cao lớn nhất dẫn tới những trận thắng tiếp theo. vừa ca ngợi mưu trí song toàn của Quang Trung các tác giả nhà Ngô Gia Văn Phái cũng đã rất tinh tế trong tái hiện lại thảm cảnh vô cùng nhục nhã của bè lũ vua quan tướng Ngô Sĩ Nghị và sự mục nát, yếu ớt không có tinh thần của dưới thời vua Lê Chiêu Thống, những con người bất tài vô dụng đó người thì theo thuyền cá về phía Bắc lẩn trốn, người thì tháo chạy không kịp mặc giáp, không kịp đóng yên ngựa.

Ngòi bút tinh tế của mình các tác giả đã dựng lên một thảm cảnh vừa buồn cười vừa tủi nhục của chế độ mục nát, đồng thời ca tụng sự tài tình của vua Quang Trung, tinh thần dân tộc của quân dân ta bền chí, phản ánh trận chiến ác liệt và vẻ vang của chiến thắng trong giai đoạn lịch sử không thể quên.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 3

Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm viết bằng chữ Hán của Ngô gia văn phái. Tác phẩm là những ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê. Đoạn trích thuộc hồi thứ mười bốn đã tái hiện chân thực vẻ đẹp gan dạ, hào hùng, tài trí song toàn của người anh hùng áo vải Quang Trung. Đồng thời cho thấy sự thất bại thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống và bè lũ cướp nước.

Trong tác phẩm nổi bật lên hai chân dung chính: chân dung của vị hero Nguyễn Huệ và chân dung của bè lũ cướp nước cùng vua tôi Lê Chiêu Thống. Với mỗi người hùng tác giả có cách khắc họa riêng, hết sức tài tình vừa đảm bảo tính chân thực, khách quan vừa bộc lộ được cái tôi member tác giả.

Trước hết về người người hùng Quang Trung, ông là nhà lãnh đạo quyết đoán, có trí tuệ sáng suốt. Ngay khi vừa hay tin quân Thanh tiến đến Thăng Long, ông đã nhanh chóng quyết định lên ngôi vua, để danh chính ngôn thuận đem quân tiến ra Bắc. Cách làm việc của ông hết sức nhanh chóng, quyết đoán, có tầm nhìn xa, bởi nếu ông không lên ngôi vua thì danh không chính, ngôn cũng không thuận thật khó có thể làm việc lớn.

Lên ngôi vua cũng cách thức làm yên lòng dân và ông ngay lập tức cầm quân ra Bắc. Trên đường tiến quân ra Bắc ông gặp Nguyễn Thiếp một người tài giỏi, mưu lược, ông trân trọng, lắng nghe kế sách của Nguyễn Thiếp. Ông là người rất trân trọng và ủng hộ người tài. Ra đến Nghệ An ông đã tuyển được hơn một vạn tinh binh, mở cuộc duyệt quân lớn. Trước khi cầm quân ra Bắc ông còn đọc lời phủ dụ binh bộ đội, vạch trần âm mưu xâm lược hiểm độc của nhà Thanh, cho thấy bộ mặt xấu xa, hung ác của kẻ thù; đồng thời cũng nêu lên ý thức kỷ luật cho binh sĩ.

Những lời ông nói như sấm vang, chớp giật, có ảnh hưởng cao lớn trong việc khích lệ tinh thần binh sĩ. Ông còn là người hết sức sáng suốt, có tầm nhìn ra trông bao la. Là một người tài giỏi, Quang Trung đã đoán biết được tình hình của giặc, lập kế sách tiến đánh và khẳng định chỉ trong vòng mười ngày là giành lại được kinh thành Thăng Long. Ông tiến hành 1 cuộc hành binh thần tốc, 25 tháng Chạp xuất quân ở Phú Xuân, 30 ông đã đến Tam Điệp ở Ninh Bình.

Và ngày đêm 30 mở đầu tiến quân ra thành Thăng Long. Đây quả là cuộc hành quân thần tốc, có một không hai trong lịch sử nước nhà. không chỉ có thế ông còn nhìn rõ bản chất quân địch, là nước lớn, sau khi thua nhất định sẽ quay lại báo thù. chính vì như thế, ông đã có kế sách ngoại giao ngay sau khi dành được chiến thắng. Ông quả là một bậc kỳ tài, thấu hiểu những gian nan, thử thách mà dân tộc phải đối mặt, đưa ra những phương hướng, chiến lược đứng đắn, là cơ sở cho sự đại thắng của quân dân ta.

Quang Trung còn có tài dụng binh như thần. Ông thấu hiểu chỗ mạnh chỗ yếu của các tướng sĩ: trách mắng Sở và Lân rất nghiêm khắc cho họ thấy mức độ nghiêm trọng của sự việc, nhưng đồng thời cũng khen ngợi biện pháp hành động của họ để bảo toàn lực lượng. Ông đánh giá cao Ngô Thì Nhậm về sự mưu trí, mưu lược hơn người. Ông quả là một tướng tài biết nhìn việc, nhìn người.

Tài cầm quân đã xuất sắc, tài đánh trận của ông cũng không hề kém cạnh. Để khích lệ lòng quân ông cho binh sĩ ăn tết trước, hẹn mùng 7 &o Thăng Long mở tiệc lớn. Không những vậy ông còn đảm bảo được yếu tố bất ngờ, bắt sống hết quân do thám và tân binh của giặc, khiến các đồn không thể đưa thông tin cho nhau. Đảm bảo yếu tố bất ngờ, nhằm đúng tết nguyên đán tiến đánh kẻ thù, bởi Hiện tại chúng đang ngủ quên trên chiến thắng, say mê hưởng lạc, không phòng bị.

Ông thay đổi chiến thuật biến hóa linh động: trận Hà Hồi dùng nghi binh, đánh Ngọc Hồi cho quân chế tạo những tấm ván ghép bằng rơm ướt, nhờ vậy mà giảm được thương vong. Đặc biệt hơn nữa ông còn đích thân ra trận, chỉ huy 1 hướng tiến công. Quang Trung là hội tụ vẻ đẹp, tinh hoa và khí phách của dân tộc.

Trái ngược với vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt của vua Quang Trung bọn quân tướng nhà Thanh thất bại thảm hại. Tôn Sĩ Nghĩ ban đầu tiến &o nước ta 1 cách dễ dàng nên luôn kiêu căng tự mãn. Không nắm rõ tình hình, chỉ lo ăn chơi hưởng lạc. Hắn còn là kẻ tham sống, sợ chết, chưa đánh đã sợ mất mật mà bỏ chạy: “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy”. Những kẻ khác kẻ thì đầu hàng, kẻ thắt cổ tự vẫn.

Thật là một bọn ô hợp, hèn nhát và bất tài. Ở đoạn văn này ngòi bút miêu tả được tác giả phát huy hết tác dụng, kết hợp với nhịp điệu nhanh, gấp gáp cho thấy sự hoảng hốt và thất bại thảm hại của kẻ thù. Đồng thời còn cho thấy giọng điệu hả hê, sung sướng trước thắng lợi của quân ta và sự đại bại của quân giặc.

Còn về phía vua tôi Lê Chiêu Thống, khi xảy ra biến loạn, quân Thanh tan rã thì vô cùng sợ hãi, bỏ chạy, thậm chí còn cướp cả thuyền của dân để qua sông. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc phải cạo đầu, tết tóc, quần áo như người Mãn. Thật đáng thương thay từ một bậc quân vương đứng đầu hàng vạn người, vậy mà chỉ vì quyền lợi của bản thân và dòng họ, Lê Chiêu Thống đã bán nước nên cần phải chịu nỗi nhục vong quốc, nắm xương tàn phải bỏ lại nơi đất khách quê người.

Mặc dù cùng miêu tả về sự thảm bại, nhưng nhịp điệu ở đoạn văn này nhịp điệu lại chậm hơn. biểu đạt sự xót thương, ngùi ngùi cho số phận của Lê Chiêu Thống. Bởi dù sao ông cũng là một cựu thần trung thành của nhà Lê, trước sự sụp đổ triều đại mình tôn thờ không khỏi không bùi ngùi, chua xót.

Tác phẩm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn hấp dẫn người đọc ở nghệ thuật trần thuật. Ghi lại những sự kiện lịch sử qua từng mốc lịch sử, cho thấy không khí khẩn trương, gấp gáp và chiến thắng hào hùng của quân ta. Nghệ thuật miêu tả người hùng sinh động, hấp dẫn. Từng trận đánh được miêu tả chi tiết, cho thấy khí thế hừng hực của quân ta và sự thất bại thảm hại của quân thù. Nghệ thuật đối lập giữa ta và địch: một bên đớn hèn, nhát chết một bền xông xáo, mưa chí, tài lược.

Xem Thêm  Sinh Năm 1954 Mệnh Gì? Cung Mệnh Tử Vi Tuổi Giáp Ngọ

Qua hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất thống chí, tác giả đã cho người đọc một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về vẻ đẹp hero, anh dũng, mưu lược của người người hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Chiến thắng oanh liệt vẻ vang của nhân dân ta trước kẻ thù. Đồng thời còn cho thấy sự thất bại thảm hại của nhà Thanh, và sự đáng thương của vua tôi Lê Chiêu Thống.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 4

Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm do một số người cùng trong dòng họ Ngô Thi viết. Có thể hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du viết trong những thời điểm nối tiếp nhau.

Ngô Thì Chí (1758 – 1788) là em ruột của danh nhân Ngô Thì Nhậm. Ông làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống, từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt lộng thần Nguyễn Hữu Chỉnh và dâng Trung hưng sách bàn kế hồi sinh nhà Lê. Sau đó, ông được vua Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập ra đoàn nghĩa binh chống Tây Sơn, nhưng trên đường đi ông bị bệnh và mất đột ngột tại huyện Gia Bình, Thành Phố Bắc Ninh. Nhiều tài liệu cho rằng ông viết bảy hồi đầu của truyện.

Ngô Thì Du (1772 – 1840) là đồng đội chú bác với Ngô Thì Chí ông học giỏi nhưng không đổ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ông ấn mình ở vùng Kim Bảng, Hà Nam. Thời nhà Nguyễn, ông ra làm quan, được bổ nhậm làm Đốc học Hải Dương, đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả bảy hồi tiếp theo của Hoàng Lê nhất thống chí, trong đó có hồi mười bốn được trích giảng ở đây. Còn lại ba hồi cuối có thể do một người khác trong Ngô gia văn phái viết &o khoảng đầu triều Nguyễn.

Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn sách ghi chép về những sự kiện của vương triều nhà Lê, có lẽ là &o thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại quyền cai trị đất Bắc Hà cho vua Lê, về bề ngoài, tuy tác phẩm chịu ảnh hưởng lối viết tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, những các tác giả rất tôn trọng sự thật lịch sử. Cho nên, mặc dù do nhiều người viết và viết ở nhiều thời điểm khác nhau nhưng nội dung tác phẩm về căn bản vẫn giữ được tính nhất quán.

Trong vhọc biện pháp hành độngệt Nam thời trung đại, có thể coi Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán có quy mô cao lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc nhất về mặt nghệ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết.

Tác phẩm đã tái hiện chân thực và sinh động bối cảnh lịch sử đầy bất định ở nước ta trong khoảng hơn ba thập kỷ cuối của thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX.

mở đầu mẩu chuyện là sự sa đọa, thối nát đến cực độ của các tập đoàn phong kiến. Thời Lê mạt, vua chẳng ra vua. Vua Lê Hiển Tông ốm đau, bạc bẽo Tình nhược, chỉ còn biết chắp tay rủ áo, cam phận làm bù nhìn. Câu nói cửa miệng của ông ta là: Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui, Vua Lê Chiêu Thống đê hèn, cúi đầu khuất phục trước giặc Mãn Thanh, mong cứu vãn cái ngai &ng mục ruỗng sắp sụp đổ. Ông vua cuối cùng là Lê Duy Mật thì tệ hại đến mức bị người đời đánh giá cùng chỉ là một cục thịt trong cái túi da mà thôi.

Bên phủ Chúa, Trịnh Sâm sống xa hoa hưởng lạc, hoang dâm vô độ. Vì say mê Đặng Thị Huệ nên Chúa Trịnh sẵn sàng phế con trưởng, lập con thứ, gây nên loạn từ trong nhà loạn ra. bạn bè chém giết lẫn nhau. Kiêu binh ỷ thế lộng hành, Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến đã đến hồi quyết liệt, cần được giải quyết. Trong toàn cảnh đó, cuộc nổi dậy với khí thế ngất trời của phong trào Tây Sơn là một tất yếu.

Rồi Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn. Nhưng cơ nghiệp nhà Tây Sơn ngắn ngủi. Chúa Nguyền dần dần bình phục thế lực, dẹp Tây Sơn, lập vương triều mới (1802). chấm dứt tác phẩm là hoàn cảnh thảm hại, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu Thống khi nương thân ở nước người.

Tất cả những sự kiện lịch sử trên được các tác giả ghi chép lại thật cụ thể, tỉ mi. Nối bật lên trên bối cảnh của thời đại nhiễu nhương ấy là hình bóng của những con người thuộc các phe phái đối lập, đặc biệt là Bức Ảnh ngời sáng của vua Quang Trung Nguyễn Huệ – người người hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của dân tộc.

Hồi thứ mười bốn là đoạn trích dài, kể lại diễn biến của nhiều tình tiết, sự kiện. Để hiểu rõ đoạn trích này, chúng ta phải tìm hiểu đôi nét về nội dung của hồi mười hai và mười ba. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai đề bắt viên quan phản bội Vũ Văn Nhậm thì vua Lê Chiêu Thông sợ hãi bỏ kinh thành Thăng Long chạy lên vùng biên ải phía Bắc, chiêu mộ nghĩa binh Gần vương đế chống lại.

Nhưng nhóm nghĩa binh ít ỏi ấy không đủ sức đối địch với quân Tây Sơn. Lê Chiêu Thống bèn cử hai viên quan hầu cận là Lê Duy Đản và Trần Danh Án kín đáo trốn sang Trung Quốc, gặp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị để cầu viện. Tôn Sĩ Nghị muốn nhân cơ hội này cướp nước ta liền tâu lên vua Mãn Thanh, xin đưa quân sang đánh.

Được lệnh, Tôn Sĩ Nghị kéo đại quân sang với danh nghĩa phù Lê, diệt Tây Sơn. Trước thế giặc mạnh, quân Tây Sơn rút lui về cố thủ ở Tam Diệp. Quân giặc kéo thẳng tới Thăng Long, không gặp sức kháng cự nào liền sinh ra kiêu căng, tự mãn. Lê Chiêu Thống cùng theo về, nhận sắc phong bù nhìn An Nam Quốc Vương.

Đoạn đầu của hồi thứ mười bốn nói về việc Tôn Sĩ Nghị kéo quân &o Thăng Long, thấy dễ dàng, cho là vô sự nên không đề phòng gì cả. Điều đó làm cho vua tôi Lê Chiêu Thống vốn đã biết rất rõ tài cầm quân xuất quỷ nhập thần của Nguyễn Huệ, rất lo lắng.

Quân tướng Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long chỉ lo chơi bời, tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân, quân nhân thì tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỷ luật gì cả. Người cung nhân cũ đến tâu với thái hậu về thái độ chủ quan coi thường Tây Sơn của giặc Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống có nguy cơ phải chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa. Thái hậu hoảng hốt nói với vua. Nhà vua lúc bấy giờ mới hoảng sợ, đến doanh trại xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân, bị hắn mắng thẳng &o mặt nên sợ hãi lui về.

Ở hồi thứ mười bốn này, với cảm quan lịch sử nhạy bén và niềm tự hào dân tộc to lớn, các tác giả đã khắc hoạ thành công Bức Ảnh người người hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, miêu tả sự thảm bại của các tướng lĩnh nhà Thanh và số phận bi quan của vua Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân.

Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ được miêu tả là con người tài ba, biện pháp hành vi 1 cách quả quyết, xông xáo, nhanh gọn và có chủ đích rõ ràng. Nghe tin giặc Thanh dã chiếm đến tận Thăng Long. Nguyễn Huệ đã thân chinh cầm quân đi ngay. Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp), Nguyễn Huệ đã làm được bao lăm việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế đốc xuất đại binh ra Bắc, gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn, tuyển mộ bầy tớ và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và nghĩ đến cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.

Một nhân tố quan trọng rất nên cần phải xem xét trước hết trong văn bản này là tác giả. Khi sáng tạo tác phẩm, tác giả không chỉ tái hiện hiện thực khách quan mà còn mô tả những tư tưởng, tình cảm, quan điểm chính trị, xã hội,… của mình.

Tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô gia văn phái – một nhóm tác giả rất trung thành với nhà Lê. Nếu xét theo quan điểm phong kiến thì trong con mắt của Ngô gia, vua Quang Trung là kẻ nghịch tặc. Thế nhưng trong tác phẩm, Bức Ảnh Quang Trung – Nguyễn Huệ lại được miêu tả khá sắc nét với tài cầm quân “bách chiến bách thắng”, tính quyết đoán cùng nhiều phẩm chất tốt đẹp khác.

Các chi tiết, sự kiện trong phần đầu đoạn trích này cho thấy vua Quang Trung là người rất mạnh mẽ, quyết đoán nhưng không hề độc đoán, chuyên quyền. Ông sẵn sàng lắng nghe và làm theo ý kiến của thuộc: hạ, lên ngôi vua để giữ lòng người rồi mới xuất quân ra Bắc. Ngay khi đến Nghệ An, ông lại cho vời một người cống sĩ đến để hỏi về việc đánh quân Thanh như thế nào.

Chi tiết này cho thấy Quang Trung luôn thân mật đến ý dân, lòng dân. Khi vị cống sĩ nói: “Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan”, ông “mừng lắm”, không chỉ vì người cống sĩ nói đúng ý mình mà chủ yếu là vì chủ trương của ông, quyết tâm của ông đã được nhân dân đồng tình ủng hộ. chứng cớ là ngay sau đó ông cho tuyển quân “chưa mấy lúc đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ”.

Cách ăn nói của vua Quang Trung cũng rất có sức thuyết phục, vừa khéo léo, mềm mỏng vừa rất kiên quyết, hợp tình hợp lý. Khi nói với binh sĩ, ông đã cho họ ngồi (một cử chỉ biểu lộ sự gần gũi mặc dù ông đã xưng vương), từng lời nói đều giảm đi, để hiểu. Sau khi lấy lịch sử từ các triều đại trước ra để cho binh sĩ thấy nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống trị ngoại bang, ông không quên tuyên bố sẽ trừng phạt những kẻ phản bội, ăn ở hai lòng. Điều đó khiến cho binh sĩ thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc.

Những lời nói, việc làm của vua Quang Trung thật hợp tình, hợp lý và trên hết là hợp với lòng người. Vừa mềm dẻo vừa kiên quyết, xét đúng công, đúng tội, đặt lợi ích của quốc gia và của dân chúng lên trên hết, ông đã khiến cho binh sĩ thêm cảm phục, càng quyết tâm chống giặc. Đó là một yếu tố rất quan trọng tạo nên những chiến thắng liên tiếp của quân Tây Sơn dưới sự thống lĩnh của vua Quang Trung.

Ở phần tiếp theo của đoạn trích, để diễn tả không khí chiến trận rất khẩn trương, quyết liệt, các tác giả đã chú trọng nhiều hơn đến các sự kiện nhưng không vì thế mà làm mờ nhạt Bức Ảnh nhân tài của vị thống lĩnh. Lời hứa chắc chắn trước lúc xuất quân của ông đã được đảm bảo bằng tài thao lược, xử trí hết sức nhạy bén, mưu trí trong những tình huống cụ thể: đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn công làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ướt để tấn công đồn Ngọc Hồi,… Tài dùng binh khôn khéo đó khiến cho quân Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, khi chúng biết được tin tức thì đã không thể chống cự lại được nữa, chỉ còn cách giẫm đạp lên nhau mà chạy.

Xem Thêm : Cung thiên bình hợp với cung nào? Giải mã tính cách cung Thiên Bình

Phần cuối của đoạn trích chủ yếu diễn tả cuộc tháo chạy hỗn loạn, nhục nhã của đám quan quân nhà Thanh. Ra đi “binh hùng tướng mạnh”, vậy mà chưa đánh được trận này đã phải tan tác về nước. Rất có thể sau khi bại trận, quân số của Tôn Sĩ Nghị (trước đó là hai – mươi vạn) vẫn còn đông hơn quân của vua Quang Trung nhưng trước sức tấn công như vũ bão của quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của một vị tướng tài ba và quyết đoán, chúng đã không còn hồn vía nào để nghĩ đến chuyện chống trả.

Trong đoạn này giọng điệu của các tác giả tỏ ra vô cùng hả hê, vui sướng. Khi miêu tả tài “xuất quỷ nhập thần” của quân Tây Sơn, các tác giả viết: “Thật là: Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”… Ngược lại, khi viết về Tôn Sĩ Nghị thì: “Tôn Sĩ Nghị sợ mất mặt, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp…”. Đó không còn là giọng của một người ghi chép lại các sự kiện 1 cách khách quan mà là giọng điệu sảng khoái của nhân dân, của dân tộc sau khi đã khiến cho bọn xâm lược ngoại bang, Vốn trước ngạo nghễ là thế, Lúc Này phải rút chạy nhục nhã.

Đoạn nói về vua tôi nhà Lê càng khẳng định thái độ của các tác giả khi viết tác phẩm này. Mặc dù luôn đề cao tư tưởng trung nghĩa nhưng trước sự nhu nhược, hèn hạ của đám vua tôi nhà Lê, các tác giả vẫn miêu tả ít nhiều thái độ mỉa mai, châm biếm. Số phận những kẻ phản dân, hại nước cũng thảm hại chẳng kém gì những kẻ cậy đông, đem quân đi xâm lược nước khác. Đó là số phận chung mà lịch sử dành cho lũ bán nước và lũ cướp nước.

Cuộc đại phá quân Thanh xâm lược là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Người làm nên kỳ tích ấy là Quang Trung – Nguyễn Huệ, vị “người hùng áo vải” vừa có tài thao lược vừa luôn hết lòng vì dân, vì nước. Trang sử hào hùng ấy đã được ghi lại bởi Ngô gia văn phái – nhóm tác giả đã vượt qua những tư tưởng phong kiến có hữu để tái hiện lịch sử 1 cách chân thực.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 5

Vhọc tập trung đại Việt Nam khi nhắc đến thể chí không thể không nhắc đến tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Tác phẩm không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà cùng với ngòi bút chân thực sắc sảo đã cho hậu thế thấy được bản lĩnh của người người hùng áo vải Nguyễn Huệ, cùng sự thất bại thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống và quân Thanh. Điều này đã được phản ánh rõ nét trong hồi thứ mười bốn của tác phẩm này.

Tác phẩm viết theo thể “chí”: một thể văn cổ ghi chép sự vật, sự việc, vừa có tính chất vhọc tập, vừa có tính chất lịch sử. (Đây bản chất là một tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối tiểu thuyết chương hồi.) Tác phẩm gồm 17 hồi, 7 hồi đầu do Ngô Thì Chí viết, 7 hồi tiếp theo do Ngô Thì Du viết, 3 hồi còn lại do người khác viết. Tác phẩm được viết ở nhiều thời điểm nối tiếp nhau từ giai đoạn cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn.

Đó là thời kỳ thống nhất đất nước thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh. Đoạn trích là Hồi thứ 14: Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài. Văn bản là lời tụng ca chiến thắng lẫy lừng của của Quang Trung cùng nghĩa quân Tây Sơn và sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh, bè lũ Lê Chiêu Thống.

bắt đầu đoạn trích là sự xuất hiện của Nguyễn Huệ. Ngược về những phần trước, có thể thấy Nguyễn Huệ được miêu tả hết sức anh tài, lẫm liệt: “Nguyễn Huệ là một tay người hùng lão luyện gan dạ lại có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc &o Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết”. Chỉ bằng những lời hết sức ngắn gọn của người hầu gái trong cung vua ta đã phần nào nhận thấy hào kiệt hơn người của Nguyễn Huệ.

Quân Thanh kéo &o Thăng Long, bành trướng thế lực, nghe được tin đó Nguyễn Huệ hết sức tức giận, định cầm quân đi tiêu diệt ngay lũ nghịch thù. Nhưng nghe theo lời khuyên của các tướng sĩ, tại núi Bân ông đã tế cáo trời đất lên làm vua, lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi lệnh xuất quân đi ngay. Việc Nguyễn Huệ lên ngôi vua đã tạo nên cơ sở vững chắc cả về tình và lý, qua đó thấy được nhân tài của ông. Dù là người nhân kiệt xuất chúng nhưng ông cũng rất biết lắng nghe ý kiến người khác, cân nhắc kỹ lưỡng trong mọi động thái.

anh tài cầm quân, nhân kiệt quân sự trong ông được chứng minh qua cuộc hành quân thần tốc ra kinh thành Thăng Long. Ông lựa thời cơ là những ngày giáp tết Nguyên Đán, khi kẻ địch đang mải mê trên chiến thắng, lo chuyện ăn chơi hưởng lạc, không phòng bị để tiêu diệt chúng. Vừa đi ông vừa chiêu mộ quân sĩ, chỉ trong &i ngày ngắn ngủi Nguyễn Huệ cùng đội quân của mình đã ra đến Bắc Hà.

Trước khi chuẩn bị tiến đánh, trong bài dụ của mình ông đã khích lệ lòng yêu nước, lòng căm thù giặc cho tướng sĩ: “Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc ta, ám sát nhân dân ta, vơ vét của cải người minh không thể chịu nổi, người nào cũng muốn đuổi chúng đi […] dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”. Đọc lời dụ của ông ta không khỏi nhớ đến bài Hịch tướng sĩ hào hùng của Trần Quốc Tuấn, lời dụ của ông cũng có sức thuyết phục không kém.

Trong cách dùng người, Nguyễn Huệ cũng tỏ ra là người hết sức xuất sắc. Ông nhận thấy được điểm yếu của mình, Sở và Lân chỉ là kẻ hữu dũng, vô mưu bởi thế ông để lại Ngô Thì Nhậm mưu lược hơn người. Và quả nhiên nhìn nhận của ông hoàn toàn chính xác. Ngô Thì Nhậm phát huy bản thân, “biết nín nhịn để tránh mũi nhọn” của kẻ thù, tránh tổn thất cho quân ta. Đồng thời cũng không trách mắng Sở và Lân.

Bên cạnh đó, ta cũng thấy ông là người có tầm nhìn xa trông bát ngát rãi, dự đoán chính xác bản lĩnh chiến thắng của ta và tiên liệu những công việc ngoại giao cần làm sau chiến thắng. Ông cử Ngô Thì Nhậm, khéo ăn khéo léo để thương thuyết với kẻ thù, để nhân dân ta nghỉ sức, xây dựng đất nước. Ông quả là một vị vua vừa có tâm lại vừa có tầm.

Đẹp đẽ nhất là khung cảnh Quang Trung lâm trận, suy nghi, khí thế tưng bừng, một mình một mũi tiến quân, tiêu diệt quân giặc. Với tinh thần tôn trọng lịch sử, sự ngưỡng mộ, lòng khâm phục thực lòng với vua Quang Trung bằng ngòi bút chân thực, đan xen kể và tả sinh động, các tác giả Ngô gia văn phái đã làm nổi bật Bức Ảnh vua Quang Trung – người hero áo vải, niềm tự hào lớn của cả dân tộc.

Bên cạnh một Quang Trung uy nghi lẫm liệt trong chiến trận lại là những kẻ bán nước hèn nhát – vua tôi Lê Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành của ông ta vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận mệnh của dân tộc đặt &o tay kẻ thù xâm lược. Và lẽ tất nhiên, khi bán nước họ sẽ chịu nỗi sỉ nhục và sự đau đớn. Từ một ông vua Lê Chiêu Thống trở thành kẻ số phận hết sức ảm đạm. Phải chạy trốn sang phương Bắc và chết ở nơi đất khách quê người.

Đối lập với Bức Ảnh nghĩa quân Tây Sơn là chân dung kẻ thù xâm lược, cụ thể qua Bức Ảnh kẻ đứng đầu – Tôn Sĩ Nghị. Hắn ta là kẻ kiêu căng, tự mãn, chủ quan, kéo quân &o Thăng Long dễ dàng “ngày đi đêm ngủ” như “đi trên đất bằng”, cho là vô sự, không đề phòng gì.

Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì hèn nhát, vô trách nhiệm thì sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp… chuồn trước qua cầu phao; quân thì “ai nấy đều rụng rời sợ hãi xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, “quân sĩ các doanh nghe thấy đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều”, “đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”. Miêu tả sự trốn chạy, đại bại của quân tướng nhà Thanh với âm điệu nhanh, mạnh, gấp gáp gợi sự thất bại liên tiếp, bộc lộ tâm trạng hả hê, sung sướng của người cầm bút.

Bằng quan điểm lịch sử chân chính của các sử gia, Ngô gia văn phái đã ghi lại 1 cách chân thực và sắc nét Bức Ảnh hào hùng của người người hùng áo vải Quang Trung. Bên cạnh đó là sự thảm bại của vua tôi Lê Chiêu Thống và sự thất bại nhục nhã của quân tướng nhà Thanh. Đoạn trích được trần thuật theo dòng thời gian, giọng điệu biến hóa linh động, khi trầm buồn, khi gấp gáp, ân hận hận hả đã cho thấy anh tài kể chuyện bậc thầy của tác giả.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 6

“Hoàng Lê nhất thống chí” là cuốn lịch sử chương hồi của một số tác giả trong ” Ngô gia văn phái”. Tác phẩm đã bao quát một giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội đẫm máu từ khi Trịnh Sâm lên ngôi Chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1868-1802) như : loạn kiêu binh, triều Lê- Trịnh sụp đổ, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn.

Sự sụp đổ không thể nào cưỡng đại của triều đại Lê- Trịnh và khí thế sấm sét của phong trào nông dân Tây Sơn là hai nội dung lớn được phản ánh qua “Hoàng Lê nhất thống chí”. Đặc biệt là Hồi thứ 14 đã được biểu hiện 1 cách hào hùng sức mạnh quật khởi của dân tộc trước thù trong giặc ngoài và khắc họa hình tượng Nguyễn Huệ, người người hùng dân tộc đã làm nên chiến công Đống Đa bất tử.

Ta như được sống lại những giờ phút lịch sử oanh liệt và hào hùng của dân tộc &o cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Kỉ Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Tác giả ” Hoàng Lê nhất thống chí” khởi đầu Hồi thứ 14 đã viết:

“Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận,Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài”

Vị cứu tinh của dân tộc thuở ấy là Nguyễn Huệ, người hero áo vải đất Tây Sơn. Ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, Tôn Sĩ Nghị chiếm Thăng Long. Tướng Ngô Văn Sở lui binh về án ngữ tại Tam Điệp. Ngày 24, Nguyễn Huệ được tin cấp báo, và ngày 25 lên ngôi Hoàng đế “tế cáo trời đất cùng các thần Sông, thần Núi”, lấy niên hiệu là Quang Trung. Nguyễn Huệ đốc xuất đại binh ra Bắc. Ngày 29 đến Nghệ An tuyển thêm một vạn quân tinh nhuệ.

Nguyễn Huệ tổ chức duyệt binh truyền hịch đến quân Thanh, vạch trần âm mưu của bọn chúng “mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, kêu gọi tướng sĩ đồng tâm, hiệp lực, để dựng nên công lớn”…. Nhà Vua chia quân ra làm năm doanh (tiền, hậu, tả, hữu, trung quân) rồi thần tốc ra Tam Điệp hội quân với cánh quân Ngô Văn Sở. Quang Trung chia đại quân ra làm năm đạo, cho quân ăn tết Nguyên Đán trước, “bảo kín” với các tướng soái đến tôi 30 thần tốc đánh quân Thanh, hẹn ngày mồng 7 năm mới thì &o thành Thăng Long “mở tiệc ăn mừng”.

Qua đó, ta thấy rõ Quang Trung có tầm nhìn chiến lược sâu mênh mông, sáng suốt, giàu mưu lược, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng lũ xâm lăng. Các sự kiện như lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, tuyển quân và truyền hịch ở Nghệ An, cho quân sĩ ăn tết Nguyên Đán trước; đặc biệt, nhà vua đã tạo nên yếu tố bất ngờ đánh quân Thanh &o đúng dịp tết khi chúng “chỉ chăm chú &o việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc” đã biểu lộ tinh thần quyết đoán của một tài năng quân sự khi Tổ quốc lâm nguy.

Tác giả mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách người hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa xảy ra: “Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, anh dũng và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc &o Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng &o mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét.”

Nguyễn Huệ là một anh hùng có tài điều binh khiển tướng, trù hoạch quân mưu như thần. Ra quân đánh thắng như chẻ tre. Bắt sống toàn bộ toán quân Thanh đi do thám tại Phú Xuyên, dùng mưu gọi loa, vây kín làng Hà Hồi, quân Thanh ” rụng rời sợ hãi” phải đầu hàng. Dùng kỳ mưu kết ba tấm ván thành một bức phía phía phía bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức; mỗi bức có 20 dũng sĩ, lưng dắt dao ngắn thành trận chữ “nhất” xông thẳng &o đồn Ngọc Hồi.

Súng quân Thanh bắn ra đều vô hiệu. Vua Quang Trung cưỡi voi độc chiến. Sáng mồng 5, đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử, hàng vạn giặc bị giết “thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”. Vua đã đặt phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, hợp vây quân Thanh tại Quỳnh Đô, giặc trốn xuống Đầm Mực vị quây Tây Sơn ” lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người”.

Thừa thắng, vua Quang Trung tiến &o giải phóng Kinh thành Thăng Long đúng trưa mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu. trước kế hoạch hai ngày. Có tài thao lược vô song, có tin &o sức mạnh chiến đấu và tinh thần yêu nước của tướng sĩ, của nhân dân ta mới có niềm tin tất thắng ấy. Chiến thắng Đống Đa 1789 đã làm cho tên tuổi người nhân vật dân tộc Nguyễn Huệ sáng ngời mãi ngàn thu.

Các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” đã từng ăn lộc của nhà Lê, vốn có cảm tình với nhà Lê nhưng trước họa xâm lăng và chiến công Đống Đa oanh liệt, học đã đứng trên lập trường dân tộc, đã viết nên những trang văn đẹp nhất, dựng nên một tượng đài kỳ vĩ, tráng lệ của người nhân vật Nguyễn Huệ. Chỉ mấy năm sau, trong bài “Ai tu vãn” khóc vua Quang Trung qua đời, Ngọc Hân công chúa đã viết:

“Mà nay áo vải cờ đào,Giúp dân dựng nước biết bao công trình.”

Đó là hình tượng người hero Quang Trung trong vhọc tập mà ta cảm nhận được với bao người ngưỡng mộ. Bằng biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập, các tác giả ” Hoàng Lê nhất thống chí” đã miêu tả và nêu bật sự thảm hại của quân Thanh xâm lược và số phận nhục nhã, ảm đạm của bọn vua phản nước hại dân.

Chỉ huy 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta là Tôn Sĩ Nghị. Sau khi chiếm được Thăng Long “không mất một mũi tên, như &o chỗ đông người”, hắn vô cùng “kiêu căng buông tuồng”. Bọn tướng tá chỉ biết “chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân”. Chúng huênh hoang tuyên bố là đầu xuân sẽ kéo quân thẳng đến sào huyệt của Tây Sơn để “bắt sống, không một tên nào lọt lưới”.

Thế nhưng, trước sự tiến công như vũ bão của Nguyễn Huệ, bao đồn giặc bị đánh tơi bời. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị dập nát, Sầm Nghi Đống phải tự tử. Hàng vạn giặc băng hà ở đầm Mực. Tôn Sĩ Nghị ” sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp…nhằm hướng Bắc mà chạy”. Quân tướng ” hoảng hồn, tan tác bỏ chạy”. Chúng tranh nhau chạy, xô đẩy nhau rơi xuống sông. Cầu phao đứt, hàng vạn giặc bị rơi xuống nước mà chết, đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Bọn sống sót chạy tháo thân về nước!

Bọn Việt gian bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Trịnh Hiến đang trên đường tháo chạy trở thành lũ ăn cướp. Chúng bạt vía kinh hồn chạy đến Nghi Tàm, ” thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc”. Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và bọn cận thần ” than thở, oán giận, chảy nước mắt” trông thật bi lụy, nhục nhã. Còn Tôn Sĩ Nghị “cũng lấy làm xấu hổ”. Chết nhưng nết không chừa! Lê Chiêu Thống hứa “lại xin sang hầu tướng quân”, nghĩa là tiếp tục rước voi về giày mả tổ ! Còn Tôn Sĩ Nghị vẫn khoác lác: “Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi!”

Có thể nói, Bức Ảnh lũ xâm lược và bọn bán nước được miêu tả bằng nhiều chi tiết châm biếm, biểu lộ một thái độ khinh bỉ sâu sắc. Đọc Hồi thứ 14 của ” Hoàng Lê nhất thống chí”, ta càng thấu rõ tim đen quân xâm lược phương Bắc và âm mưu của Thiên triều, và bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. Ta càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước, hero của dân tộc ta, vô cùng kính phục và hàm ơn Nguyễn Huệ, nhà quân sự anh tài của Đại Việt.

Nghệ thuật kể chuyện, bút pháp miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động tạo nên những trang văn hào ùng tuyệt đẹp vừa giàu giá trị văn chương, vừa mang tính lịch sử sâu sắc.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 7

Ngô gia văn phái là một nhóm các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì. Sự nghiệp văn chương của nhóm tác giả này nổi bật và tiêu biểu nhất với Hoàng Lê nhất thống chí, cuốn lịch sử chương hồi nổi tiếng. Tác phẩm khái quát lại một giai đoạn, thời kỳ lịch sử với những biến cố đầy bất định từ khi chúa Trịnh Sâm lên ngôi đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà.

Hồi thứ mười bốn đã khắc họa 1 cách chân thực về sức mạnh, tinh thần quật khởi của dân tộc ta trước cảnh thù trong giặc ngoài cùng với chiến công lừng lẫy của người nhân vật áo vải Nguyễn Huệ. Cuối năm 1788, đầu năm 1789, Lê Chiêu Thống đã kéo 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị đứng đầu sang xâm chiếm nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị đã đóng chiếm được Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở rút lui về Tam Điệp để chống đỡ.

Trước hoàn cảnh đó, Nguyễn Huệ diễn đạt như một người hero của toàn thể dân tộc. Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế &o ngày 25, “tế cáo đất trời cùng các non sông, thần núi” rồi đưa quân ra Bắc. Ông cũng tuyển chọn những đội quân tinh nhuệ và có tinh thần yêu nước, kháng chiến để tham gia chiến đấu giữ gìn, bảo vệ đất nước.

Ngày 30 tháng Một, Nguyễn Huệ mở tiệc thiết đãi quân nhân, dự định &o ngày mồng bảy thì &o thành để mở tiệc mừng. Có thể thấy rằng Nguyễn Huệ là một con người có hành vi quyết đoán, mạnh mẽ, có tư duy lớn trong việc nhận biết tình hình của ta và của địch. Ông cũng là người nhìn xa trông bát ngát rãi, biết địch biết ta, tài thao lược vô cùng tài giỏi. Những dự định trong cuộc kháng chiến được Nguyễn Huệ tiên đoán như một vị thần.

Trong kháng chiến, hình tượng người hero Quang Trung – Nguyễn Huệ hiện lên với tư thế, tầm vóc lớn lao, oai phong. Quân Thanh khi vừa thấy bóng hình nhà vua đã chạy tán loạn tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, quân ta vây kín làng rồi bắc loa công bố khiến quân Tanh “ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết”; mùng 5 Tết tiến đến Ngọc Hồi, nhà vua đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, ghép liền ba tấm làm một, lấy rơm nước phủ lại, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, cùng với đó là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ “nhất” tiến &o đồn.

Trước tình thế đó, mọi sự phản công của kẻ thù đều vô hiệu hóa. Quân Thanh đã tự hại mình khi dùng những súng ống phun khói làm cho quân ta lung lay, rối ren nhưng lại tự “gậy ông đập lưng ông” đối với chiến thuật này. Ngay lập tức, Nguyễn Huệ đã sai đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất, lấy dao ngắn mà chém. Trận chiến chấm dứt với bức ảnh “quân Thanh thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”.

Quang Trung cưỡi voi &o thành Thăng Long để giải phóng toàn dân tộc &o trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu.

Trước cảnh ngộ ấy, quân Thanh thua thảm hại khi mừng vui yến tiệc, không lo việc lớn. Việc tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết, sống động bức ảnh quân Thanh bị thua tan tác, chạy loạn đã biểu hiện rõ sự thất bại đến thảm hại của quân Thanh. Hoàn toàn ngược lại trước sự thua trận của quân Thanh, quân ta mạnh mẽ, như “tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên”.

Sự khắc họa về cảnh thua trận đến thảm hại của quân tướng nhà Thanh được Ngô gia văn phái miêu tả rất rõ. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ nhằm hướng Bắc chạy. Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự tử, quân nhà Thanh đều “hoảng hồn, tan tác bỏ chạy” khắp nơi, tranh nhau xô đẩy xuống sông, giẫm đạp lên nhau mà chết. Lê Chiêu Thống cũng vội vã bỏ chạy, cướp thuyền để đi.

Đoạn trích Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí là một đoạn trích đặc sắc, hay và độc đáo, vô cùng sinh động. Có rất nhiều các điểm nhấn về nghệ thuật đáng lưu ý trong đoạn trích, góp phần làm nổi bật được nội dung câu chuyện. Giọng điệu lúc nhanh lúc chậm miêu tả sự biến đổi hoạt bát trong cách kể chuyện khiến người đọc như đang sống trong từng trang văn của cuộc kháng chiến hào hùng do Quang Trung – Nguyễn Huệ thao lược.

Cùng với đó là việc khắc họa hình tượng nhân vật với những nét nổi bật, đặc sắc. Tướng vua tôi Lê Chiêu Thống cùng lũ quân Thanh đều thất bại thảm hại. Ngoài ra đó, hình tượng người hero áo vải Nguyễn Huệ hiện lên với tư tưởng, tầm vóc hiên ngang, bất khuất.

Xem Thêm  Joyboy – Khám phá người hùng kì lạ và thú vị trong One Piece

Đoạn trích “Hồi thứ mười bốn” của Hoàng Lê nhất thống chí cho ta thấy được những âm mưu tàn độc của quân xâm lược đối với dân tộc ta. Đoạn trích cũng cho ta thấy được vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết dân tộc và tài thao lược, mưu tính ấn tượng của một con người kiệt xuất vua Quang Trung – Nguyễn Huệ.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 8

Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm vhọc tập viết theo lối chương hồi, mang đậm giá trị lịch sử. Phản ánh được 1 cách chân thực và sống động tình hình xã hội đầy bất định ở Việt Nam ba mươi năm cuối thế kỉ mười tám, và mấy năm đầu thế kỉ mười chín.

Trong tác phẩm này, các tác giả nhà Ngô gia văn phái đã đặc biệt xây dựng cấu trúc tác phẩm và xây dựng rõ nét chân dung nhân vật lịch sử, điển hình trong số đó chính là người nhân vật áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ. Trong hồi mười bốn của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, các tác giả Ngô gia văn phái đã khắc họa bức ảnh Nguyễn Huệ – Người nhân vật dân tộc mưu lược toàn tài, trí tuệ hơn người cùng tài cầm quân xuất chúng.

Người nhân vật Nguyễn Huệ được xây dựng trong tác phẩm là một người kiêu hùng, quyết đoán với những biện pháp hành động mạnh mẽ, dứt khoát. Khi được tin quân Thanh kéo sang, chiếm đóng Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lập tức “tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế. Sau đó lập tức thân chinh kêu gọi binh bộ đội, đốc thúc đại quân, cả thủy lẫn bộ kéo ra Bắc đánh dẹp quân Thanh. Qua hành động này ta có thể thấy Nguyễn Huệ là một người vô cùng quyết đoán, đặc biệt đối với những vấn đề liên quan đến vận nước thì không hề chần chừ, do dự mà thân chinh cầm quân đi đánh giặc.

Trước khi mang quân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã cho gọi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp &o để bàn luận cơ mưu. Điều này cho thấy Nguyễn Huệ tuy gan góc, trí tuệ hơn người nhưng không độc đoán mà rất coi trọng ý kiến của những bậc hiền tài, biết chiêu mộ ý kiến của hiền thần. Quả thực, Nguyễn Huệ là một bậc minh quân anh tài sáng suốt.

Biết được số lượng binh bộ đội mà quân địch kéo sang Thăng Long là rất lớn – hai mươi chín vạn quân, cũng xét thấy tương quan lực lực giữa ta và địch có sự chênh lệch, Nguyễn Huệ đã dốc sức chiêu mộ binh bộ đội, mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn nhằm nâng cao sức mạnh của quân ta. Đồng thời cũng phân chia quân thành bốn doanh: tiền, hậu,tả hữu; lên kế hoạch tiến công đánh giặc.

Như vậy, Nguyễn Huệ là một vị chủ tướng đầy mưu lược, không chỉ nâng cao sức mạnh cho quân mình mà còn bố trí, đề ra những kế hoạch cụ thể, chu toàn. Đây là tiền đề cho những thắng lợi vang dội sau này. Nguyễn Huệ là người có trí tuệ sáng suốt, biết “đánh” &o lòng quân để nâng cao nhuệ khí, tinh thần chiến đấu.

Ông đã phân tích cặn kẽ tình hình quân quân giặc ở thành Thăng Long, nêu cao truyền thống đánh giặc bất khuất của dân ta từ thời 2 Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lí Thái Tổ…Từ đó ông làm tiền đề để đưa ra lời kêu gọi toàn quân: “Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn.”

Những lập luận sắc bén, chặt chẽ, thấu tình đạt lý của Nguyễn Huệ đã khơi dậy được nhuệ khí chiến đấu, lòng tự tôn của toàn quân, phát huy được sức mạnh tinh thần to lớn cho cuộc chiến sắp tới. Là một người chủ tướng, Nguyễn Huệ cũng đề cao kỷ luật, những quy định chặt chẽ với nghĩa quân, xử phạt nghiêm khắc với những ai ăn ở hai lòng, phản bội đất nước, dân tộc “Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc bắt gặp ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước”.

Sự đa mưu túc trí của Nguyễn Huệ còn miêu tả ở tài dùng người,cầm quân, vạch ra những chiến lược, chiến thuật đánh giặc độc đáo, hợp lý. Đội quân của Nguyễn Huệ có cuộc hành quân thần tốc do người chủ tướng đề ra chiến lược cho bầy tớ thay phiên nhau, cứ ba người một tốp thay phiên võng nhau đi, thành ra quân trẩy đi liên miên không phải dừng mà ai nấy đều lần lượt được nghỉ. Do đó, quân Tây Sơn đã hành binh cực kỳ thần tốc.

Cách chống lại vũ khí của giặc cũng vô cùng độc đáo bằng cách dùng khiên có bao phủ rơm ướt bên ngoài, với chiến lược này hỏa tiễn của quân địch không thể phát huy được tác dụng. Nguyễn Huệ còn thực hiện chiến thuật nghi binh, cho quân mở cờ gióng trống ở phía Đông, quân địch khi rút chạy đã vô cùng hoảng sợ, rày xéo lên nhau mà chạy về nước.

Như vậy, Hình ảnh vua Quang Trung Nguyễn Huệ được các tác giả Ngô Gia văn phái khắc họa một cách sống động,chân thực hình tượng của một người nhân vật trí tuệ, oai phong lẫm liệt. Điều đáng nói ở đây là các tác giả Ngô gia thuộc nhà Lê mà viết về Quang Trung trên tinh thần ca ngợi như vậy, tức là đứng trên lập trường dân tộc để phản ánh. Điều đó càng làm cho tác phẩm mang nhiều giá trị hơn.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 9

Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, có thể nói cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc nhiều khi đã lấn át cả thái độ thiên vị với triều Lê. Điều đó đã mang lại những trang viết thực và hay.

Khi cho rằng “Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại” có lẽ tác giả của nhận định này đã nghĩ đến những trang viết chân thực, sống động phản ánh trung thành thực chất của thời đại mà nhà văn đó sống. Điều này khiến độc giả Việt Nam nhớ đến một tác phẩm “thực và hay” như thế: “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái. Có ý kiến cho rằng: trong “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái, có thể nói cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc nhiều khi đã lấn át cả thái độ thiên vị với triều Lê. Điều đó đã mang lại những trang viết thực và hay”. Chỉ riêng qua hồi thứ mười bốn của tác phẩm ta đã thấy rõ điều này.

“Hoàng Lê nhất thống chí” phản ánh thời kỳ lịch sử cuối thế kỉ XVIII của đất nước ta. Khi ấy, triều đình vua Lê chúa Trịnh đang suy đồi, thối nát, khởi nghĩa nông dân nổi lên liên tiếp mà tiêu biểu là phong trào nông dân Tây Sơn của ba bạn bè Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Ngô gia văn phái là tập thể tác giả gồm những đồng đội họ Ngô Thì như Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du,… Họ đều là những bậc quan thần của triều đại vua Lê, chúa Trịnh.

Hồi thứ mười bốn của tác phẩm tái hiện chiến thắng lẫy lừng của Quang Trung – Nguyễn Huệ trong xuân Kỷ Dậu và sự thảm bại của bè lũ vua Lê Chiêu Thống và quân Thanh xâm lược. Theo thói thường, đứng về phía triều đình, Ngô gia văn phái phải coi lực lượng của Quang Trung là “giặc cỏ”. Nhưng vượt lên những quan điểm chính trị thường ngày, tập thể tác giả họ Ngô đã có cái nhìn tiến bộ về sự kiện chấn động lịch sử này.

Họ nhìn cuộc khởi nghĩa dưới ánh sáng của sự khách quan trong tiến trình vận động lịch sử. Bởi thế, hình ảnh vua Quang Trung hiện lên với những vẻ đẹp phi thường của bậc đại tướng. Còn bè lũ Chiêu Thống và Tôn Sĩ Nghị thật ngu ngốc và thảm hại đến đáng thương. Chính sự chân thật của lịch sử cùng sự sống động của ngòi bút những tác giả họ Ngô đã tạo nên những trang viết “thực và hay” đến thế.

Trong đoạn trích, hình tượng người nhân vật dân tộc Quang Trung hiện lên vô cùng đẹp đẽ, phi thường. Đó là con người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán và có trí tuệ sáng suốt, sâu xa, nhạy bén. Nghe tin giặc đánh chiếm đến tận Thăng Long, ông không hề nao núng mà quyết định thân chinh cầm quân đi ngay. Trong vòng một tháng từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp ông đã liên tiếp làm nhiều việc.

Việc ông tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế nhằm thu phục lòng dân và có danh nghĩa ra Bắc dẹp giặc. Tiếp đó, nhà vua đốc xuất đại binh ra Bắc, trên đường đi, Quang Trung vừa gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn vừa tuyển quân bộ đội và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân đánh giặc. Những việc đó thần tốc và sáng suốt vô cùng. Nó cho phép nhà vua thu nạp được người tài và binh tướng dồi dào, tinh nhuệ. Lời phủ dụ quân quân nhân của ông sâu sắc và nhằm nhò:

“Đánh cho để dài tócĐánh cho để đen răngĐánh cho chúng chích luân bất phảnĐánh cho chúng phiến giáp bất hoànĐánh cho sử tri Nam quốc hero chi hữu chủ…”

Những lời ấy đã khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc, nêu bật dã tâm của giặc. Đồng thời, nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, kêu gọi quân lính, ra kỷ luật. Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn, ý tứ phong phú, sâu xa có tác động ảnh hưởng kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc. Ngay sau đó, ông đã họp với tướng sĩ để lên kế hoạch đối phó quân Thanh. Ông tỏ ra sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người.

Bên cạnh đó, Quang Trung – Nguyễn Huệ còn là người có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông mênh mông. Mới khởi binh nhưng ông đã khẳng định “Phương lược đã tính sẵn… mười ngày sẽ đuổi được người Thanh”. Sau đó, ông còn tính kế hoạch ngoại giao sau chiến tranh đối với một nước “lớn gấp mười lần mình” để có thể dẹp binh đao để cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng. Điều này ở Nguyễn Huệ đã khẳng định rằng ông thực sự là một tài năng quân sự, một nhà mưu lược tài ba. Trong những cuộc chiến tranh phong kiến ở Việt Nam, hiếm có một vị tướng nào tính toán thần tình và sâu xa đến vậy.

Bước &o cuộc chiến, nhà vua đã mô tả tài dụng binh như thần. Nhà vua đã chủ trương 1 cuộc hành quân thần tốc. Ngày 25 tháng Chạp xuất quân ở Huế. Ngày 29 tới Nghệ An (350km qua núi đèo). Tuyến quân tổ chức đội ngũ, duyệt binh 1 ngày. Hấp ủ ấp ấp sau: ra Tam Điệp (150km). Đêm 30 tháng Chạp lên đường ra Thăng Long. Và điều đặc biệt là tất cả đều đi bộ! Từ Tam Điệp trở ra (150km) vừa hành quân vừa đánh giặc.

Ngày 5 Tết &o Tháng Long (trước đó, Quang Trung đã định liệu là ngày mùng 7, như vậy là vượt kế hoạch hai ngày!). Dù việc hành quân liên tục nhưng cơ nào, đội ấy vẫn chính tề. Điều này khẳng định tài cầm quân của người làm tướng như vua Quang Trung.

Trong trận chiến với quân Thanh, hình ảnh nhà vua hiện lên vô cùng oai phong, lẫm liệt. Ông thân chinh cầm quân, đóng vai trò là tổng chỉ huy chiến dịch thực sự, hoạch định, phương lược tiến đánh, tổ chức quân sự từ thống lĩnh một mũi quân tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn.

Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy áo vải, quân Tây Sơn đã đánh trận thật lẫy lừng: Bắt sống quân do thám ở Phú Xuyên để giữ bí mật, tạo bất ngờ; vây kín làng Hà Hồi, quân lính vây quanh dạ ran làm cho lính trong đồn sợ hãi đều xin hàng; công phá đồn Ngọc Hồi lấy ván ghép quấn rơm ướt để tránh tên lửa của địch,… Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù khiếp vía.

Trong việc khắc họa hình ảnh chân dung vua Quang Trung – Nguyễn Huệ, các tác giả đã mô tả sự tôn trọng sự thật lịch sử và ý thức dân tộc. Dù có cảm tình với nhà Lê họ không thể bỏ lỡ sự thực là vua Lê đã hèn yếu ” cõng rắn cắn gà nhà”. Chiến công lừng lẫy của Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc. Bên cạnh đó, các nhà văn cũng đã khắc họa thật sinh động hình ảnh bè lũ bán nước và cướp nước

Bọn Tôn Sĩ Nghị, sầm Nghi Đống không đề phòng, chỉ lo yến tiệc vui chơi. Chúng ngạo mạn gọi quân Tây Sơn là lũ “giặc cỏ”. Nhưng khi đội quân “giặc cỏ” ấy đến thì chỉ biết tháo chạy và nhận lấy các chiếc chết thê thảm. Tôn Sĩ Nghị thì cắt râu bỏ trốn, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Bọn quân lính thì chen lấn, xô đẩy, dẫm lên nhau mà chạy về nước. Bọn vua tôi phản dân hại nước Lê Chiêu Thống cùng chịu chung số phận. Thê thảm nhục nhã nhất là vua Lê phải lê thân sang đất Bắc để rồi chịu cái chết băng giá nơi đất khách quê người.

Đây là đoạn văn miêu tả chân tâm thành cảnh khốn khổ của vua Lê Chiêu Thống. Tác giả văn gửi gắm ở đó một chút cảm xúc riêng của người bề tôi cũ của nhà Lê. Điều này được biểu lộ qua những giọt nước mắt và thái độ coi ngó của người Thổ hào với giọng văn bùi ngùi.

Hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái cùng toàn bộ tác phnhà hàng ăn uống sự là những áng văn – sử chân thực, sinh động. Tập thể nhà văn chẳng những diễn tả thành công vai trò “thư ký của thời đại” của mình mà còn để lại trong lịch sử vhọc hành dân tộc một dấu ấn đậm nét của thiên tài và tâm đức.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 10

Mà nay áo vải cờ đàoGiúp dân dựng nước biết bao công trình.

Hai câu thơ trích trong Ai tư vãn của công chúa Ngọc Hân khóc chồng không phải là cái nhìn của tác giả Hoàng Lê nhất thống chí. Đoạn trích ở hồi thứ mười bốn này, đã tái hiện hình tượng Nguyễn Huệ nhưng bằng một nhãn quan khác, một cảm tình khác, thiện cảm hướng về nhà Lê.

Hình tượng nhân vật này thuộc một vùng không gian nghệ thuật, vùng ý thức tư tưởng ngược chiều. Tính chất phi chính thống của Nguyễn Huệ không nằm trong ý định mệnh danh, nhưng từng chữ, từng dòng miêu tả thì chân dung người hero áo vải đã từ từ sừng sững được hiện lên. Khi bức tượng phật đài hoàn thiện thì chính nhà văn cũng không khỏi bất ngờ, đó là điều hiếm thấy trong vhọc hành nước nhà.

Hồi thứ mười bốn mở màn bằng cái việc hèn hạ của Lê Chiêu Thống “Cõng rắn cắn gà nhà”. Tôn Sĩ Nghị cùng hai chục vạn quân Thanh kéo sang chính là để thực hiện cái ý đồ trái quy luật lịch sử là phản dân hại nước của vua Lê, nhằm hai mục đích khác nhau, về danh nghĩa, chi viện cho một nước nhỏ, với tư cách là một nước lớn (nước của Thiên tử hay một nước lân bang?). Còn trên thực chất, ở chúng có một cái gì đó rất khó hiểu.

“Cứ xem lời lẽ trong bài hịch thì những điều họ bắt mình phải đương lấy rất là nặng nề, còn họ thì chỉ lảng vảng ở bên bên bờ sông, lấy thanh thế suông để dọa dẫn mà thôi”. Vì sao mà Tôn Sĩ Nghị lại không ra tay? Thái độ “án binh bất động” này hoàn toàn không giống sự khẩn trương đến gấp gáp lúc kéo quân sang. Từ cửa ải hướng thẳng tới Thăng Long, đại binh của Tôn tổng đốc đã từng hăng hái tiến lên với tốc độ ngày đi đêm nghỉ, xuyên rừng vượt núi. Nay, tới kinh thành, giặc còn chưa tiếp cận được, họ đã vội dừng lại là cớ làm sao?

Sự không thực bụng của Tôn Sĩ Nghị trong sự nghiệp phù Lê đã được tiên đoán của người cung nhân ấy : “Họ chẳng qua chỉ là người khách, chuyến này sang cũng cốt xem sự thể khó hay dễ để liệu về tiến lui mà thôi”. Đối phương của Nguyễn Huệ do vậy không hẳn là bọn bán nước mà là lũ cướp nước. Bọn bán nước thì đê hèn nhưng không có lực lượng. Còn bọn cướp nước thì không chỉ tướng mạnh quân đông mà tham vọng tâm địa cũng không thể coi thường. Trong chiến tranh, thắng lợi bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh.

vậy nên cái mạnh của Nguyền Huệ, ớ người cầm quân được soi từ nhiều phía. Chi một cái nhìn của người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên cũng rõ: “Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, gan dạ và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc &o Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết”. Cái nhìn đó hẳn không sai. Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lộng hành, lấn át ngôi vua bị Nguyễn Huệ trừng trị đã dành.

Nhưng trừng trị theo cái kiểu “bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn” thì trong lịch sử những nhân vật xuất chúng của nước chúng ta chưa thấy lần nào. Bới tính hiệu quả, tính tức thời của hành động chỉ như một chớp mắt, một cái trở bàn tay. Uy của Nguyễn Huệ tựa hổ sấm sét, đến nỗi “Không một người nào dám nhìn thẳng &o mặt”. Chân dung ấy quả thật như huyền thoại, một ánh sao băng nhưng hoàn toàn không cô lập.

Ở đó có mạch nguồn, có độ sâu cội rễ. Nguyễn Huệ đã làm những việc cha ông từng làm trước hiểm hoạ xâm lăng là “không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo”. Nguyễn Huệ đứng lên trong hoàn cảnh ấy, cái tâm, cái chí của Nguyễn Huệ là cái tâm, cái trí của tiền nhân. Ngọn cờ đạo lí đã dẫn đường cho cuộc xuất quân thần tốc, và cái tâm, cái tự của trăm họ bấy giờ làm cho con đường ấy bát ngát ra.

Sự thấu hiểu, lắng nghe của Nguyễn Huệ một cách thành thực và khiêm tốn cũng đủ điều chỉnh cho cơn bão căm hờn tạm thời nén xuống. Nhận được tin cấp báo của Nguyễn Văn Thuyết từ Tam Điệp chạy trạm &o Phú Xuân, Bắc Bình Vương giận lắm định thân chinh cầm quân lập tức di ngay. Nghe lời can ngăn của các tướng sĩ dưới quyền, ông ưng ý “lòng tôn phò của mọi người” làm nghi thức lên ngôi hoàng đế. Khi tới Tam Điệp, Sở, Lân mang gươm đến xin chịu tội vì đúng là họ có tội. Người chủ tướng (cũng là vua mới) không phải không hiểu tội danh lớn nhất trong binh pháp phải xử lý như thế nào.

Đúng ra thì “quân thua chém tướng”, đó là luật. Nhưng không có luật lệ nào trái được nhân tâm. Lòng Sở, Lán không phải thế, hơn nữa đó là mưu lược của Ngô Thì Nhậm. Lẽ ra bị trừng phạt, nhưng cuối cùng lại được ngợi khen. Cách hiểu người và dùng người đến mức tri kỷ, tri âm như thế không phải là người cầm quân nào cũng có dược. Đâu phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Huệ trong việc tập hợp, tổ chức lực lượng lại làm được cái việc Lê Lợi trước đó đã từng làm “Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới” (Bình Ngô đại cáo).

Tướng của Nguyễn Huệ là Hám Hổ Hầu đi kén lính ở Nghệ An theo quy định cứ ba trai tráng (ba suất đinh) thì lấy một người. Thế mà chẳng mấy chốc đã được “hơn một vạn quân tinh nhuệ”. Niềm tin của vua Quang Trung là dựa &o cơ sở lòng dân ấy. Không biết là ông nói với mọi người hay nói với chính mình trong lần gặp Sở, Lân ở Tam Điệp: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn.

Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh”. Có được cái tâm, cái trí, kẻ thao lược phải có quyền mưu, mà linh hồn của quyền mưu là cái dũng. Như ta biết : quyết tâm của Tôn Sĩ Nghị là &o tới sào huyệt của Nguyễn Huệ ở Phú Xuân với mục tiêu “Bọn giặc ấy nhất định lần lượt bị bắt sống, không một tên nào lọt lưới” và tự đắc hợm mình “người Nam Hà sẽ đến mà xem”. Còn Nguyễn Huệ chỉ một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Tôn Sĩ Nghị &o Nam, Nguyễn Huệ ra Bắc, hai cuộc hành tiến trái chiều nhưng đều lấy thời điểm ngày hạ cây nêu làm mốc.

Riêng với Nguyễn Huệ trước một trận chiến dường như không cân sức (kẻ thù đông hơn gấp bội) thế mà dám hẹn với các tướng của minh “đến ngày mồng 7 năm mới thì &o thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng”. Điều đó mô tả rõ lòng quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược của Nguyễn Huệ. Quả thật, theo dõi cuộc hành quân của Nguyễn Huệ từ Tam Điệp trở ra, người đọc mới hiểu thế nào là thần tốc về lực lượng, quân của Nguyễn Huệ chia làm năm đạo, có cả thuỷ bộ, nhưng bộ binh là chính.

Phương tiện hành quân không nói đến lừa ngựa, chỉ có một số voi, trong đó có thớt voi vua Quang Trung cưỡi. Vậy thì đại quân chủ yếu là chạy bộ, không chỉ từ Tam Điệp mà trước đó từ Nghệ An, khi nhà vua hạ lệnh tiến quân “Các quân đéu nghiêm chỉnh,đội ngũ mà đi”. Vậy “đi” đây là đi bộ. Họ vừa đi vừa đánh. Thế mà đêm 30 tháng Chạp Mậu Thân (1788) còn ở Tam Điệp, mồng 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) đã tới Hà Hồi, vượt qua hai con sông Gián Khẩu và Thanh Quyết. Hơn một trăm cây số, mà họ chỉ hành quân trong ba ngày.

giữ nguyên tốc độ ấy, mờ sáng ngày mùng 5, đại quân đã đến đồn Ngọc Hồi, vượt qua sự kháng cự không phải là không đáng kể của đồn này dưới sự chỉ huy của tên Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống, cùng ngày hủ ấp ấy, đại quân đã tiến đến Thăng Long. Điều có thực mà như không có thực, đúng như lời dặn của vua Quang Trung : “Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác!”.

Hình như trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc Việt Nam, có hai câu nói gần giống nhau khi nhận định về sự thắng bại, hơn thua. Ấy là câu trả lời vua Trần của Trần Hưng Đạo “năm nay thế trận giặc nhàn” và lời dặn trên đây của Nguyễn Huệ. Cùng với cuộc hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử chiến tranh, cách đánh của vua Quang Trung biến hóa như thần, không một thứ sách vở nào có được. Đó là cách đánh bao bọc, chia cắt địch, tạo yếu tố bất ngờ. Đối phương rơi &o một thế cờ bày sẵn không kịp trở tay. Vì sao khi tới sông Thanh Quyết, toán do thám của quân Thanh bỏ chạy, Quang Trung đã cho truy đuổi đến cùng ?

Thực ra số quân địch ấy không có gì đáng kể. Điều quan trọng với Quang Trung là những trận đánh lớn tiếp theo, Tôn Sĩ Nghị không thể chủ động đề phòng. Đảm bảo được yếu tố bất ngờ nghĩa là đảm bảo được 1/2 thắng lợi. Do vậy ở đồn Hà Hồi, mãi tới khi Quang Trung bắc loa truyền gọi, quân lính trong đồn lúc ấy mới biết. Vì bị động, bị bất ngờ “ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết”. Nói cho cùng, thắng bại trong chiến tranh phụ thuộc &o hai yếu tố : thể và lực.

Xem Thêm : 76 ở đâu? Biển số 76 ở đâu? – Hoatieu.vn

“Lực” liên quan đến “thế” và “thế” đại quân Tây Sơn có thể tạo ra “lực”. Quang Trung đã tận dụng và phát huy hai yếu tố trung tâm then chốt ấy. Bất ngờ là một khía cạnh của thế. Ở đây có bất ngờ về thời gian và địa điểm tấn công. Còn có sự bất ngờ về cách đánh. Kẻ địch cho dù có biết thời điểm tấn công – nhưng không biết cách đánh của đối phương, cũng rất khó đề phòng. chính vì như vậy, đồn Hà Hồi chiến thắng nhanh chóng, dễ dàng. Không cần bắn một mũi tôn nào mà kẻ thù tự đem mình chịu trói. Cái đó còn nhờ &o mưu. Phải có một quyền mưu đạt tới mức nghệ thuật mới có thể vừa chiến thắng vẻ vang vừa bảo toàn lực lượng.

Nhưng tới đồn Ngọc Hồi, cửa ngõ của kinh thành Thăng Long thì cách đánh ở Hà Hồi không thể ứng dụng được nữa. Muốn áp đảo đối phương ngay từ phút đầu thì phải cần đến một phương sách khác, để vô hiệu hoá lực lượng phản công của địch. Quang Trung đã dùng rơm và ván, nghĩa là một thứ khiên, mộc đơn giản mà thật sáng tạo tài tình tạo ra lá chắn để đại quân vẫn với đội hình ấy dàn chữ “nhất” tiến lên.

Diệu kế ấy làm cho các mũi tên quân giặc bắn ra “chẳng trúng người nào cả”. Quân giặc phải dùng đến ống phun khói tung hỏa mù để làm cho quân Nam rối loạn thì bỗng chốc gió lại đổi hướng, quân Thanh tự hại mình, khốn đốn không phương chống đỡ. Uất ức vì tướng giỏi, quân đống, ý chí và mưu lược có thừa mà phải tự trói tay nộp mạng, Sầm Nghi Đống thắt cổ chết là chuyện đương nhiên.

Điều Nguyễn Trãi tổng kết trong Bình Ngô đại cáo “Đánh một trận sạch không kình ngạc – Đánh hai trận tan tác chim muông” đã được Quang Trung kế thừa ở thời đại ông. Để đạt tới tính triệt để, tính tuyệt đối, vừa tiêu diệt toàn bộ lực lượng đối phương vừa bẻ gãy hoàn toàn ý chí của chúng, nhất là ở &o địa bàn trọng yếu như đồn Ngọc Hồi, Quang Trung đã phối hợp tấn công phía trước với hai cánh như thế của hai gọng kìm. Lực lượng của địch không nhỏ bé như ở Hà Hồi, nhưng cảm thấy bất lực giữa một “thiên la địa võng” phong bế. Quân ứng chiến đại bại đã đành, quân rút chạy càng vô cùng hoảng loạn.

Chạy về phía đê Yên Duyên thì đã thấy quân của Quang Trung gióng trống mở cờ, tắt sang đường Vịnh Kiều chạy trốn thì quân voi của Quang Trung từ Đại Áng kéo sang chặn lối. Còn cái chết nào nhục nhã hơn đối với chúng là ở &o cái thế cùng đường và hoảng loạn bội phần ấy phải trốn cả xuống Đầm Mực đành để cho “quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người”.

Giữ cho mình cái thế và lực ấy, đại binh của Tây Sơn kéo thẳng &o thành Thăng Long. Điều thú vị là các trận đánh của Quang Trung ngày một quy mô lớn bao la hơn như cơn bão xoáy tăng dần cường độ, vượt qua mọi cánh cửa vòng ngoài tiến &o đại bản doanh mà tuyệt nhiên không gặp một vật cản nào đáng kể.

các vật cản ấy dù là Sầm Nghi Đống hay Tôn Sĩ Nghị, dù là Hà Hồi, Ngọc Hồi, hay cả Thăng Long, quân xâm lược đều ở &o một tình thế không mấy khác nhau : sợ hãi, cuống cuồng, bất lực. Sầm Nghi Đống tự tử đã đành, Tôn Sĩ Nghị không thể trở tay một khi đã “sợ mất mật”. Thế là “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp” cắm đầu nhắm hướng Bắc mà chạy.

Chi tiết có thực này tuy chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng ý nghĩa của nó lại rất lớn. Chỉ mới ít ngày trước đó hai chục vạn quân Thanh hùng hổ từ phương Bắc kéo sang định làm cỏ nước Nam, hợm hĩnh là thế, nay một mảnh giáp cũng không còn, nói gì đến bọn bán nước cầu vinh Lê Chiêu Thống. Tư cách tiện nhân hèn hạ của y dược đặc tả trong nhiều trường hợp, như những giọt nước mắt tiễn đưa Tôn Sĩ Nghị ở biên cương phía Bắc của vua Lê thật thảm hại mà cũng nực cười. Như thế là bức phác thảo về nhân vật Quang Trung đó vừa hoàn tất với những đường nét cuối cùng.

tượng phật đài có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà cứ sừng sững hiện lên dưới bầu trời trong veo còn sặc mùi thuốc đạn của kinh thành. Trong khải hoàn môn của người thắng cuộc, vua Quang Trung là biểu tượng đầy ý nghĩa cho những gì thuộc về dân tộc. Đó là đạo lý Việt Nam, tài trí Việt Nam, sức mạnh Việt Nam. Phải chăng hình tượng đó ít nhiều sống lại trong giấc mơ của Nguyễn Du khi chuyển đổi một kẻ anh hùng thảo dã trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thành một anh hùng tái thế – Từ Hải trong Truyện Kiều?

Trở lại điểm nhìn của tác giả Hoàng Lê nhất thống chí, nhìn tổng quát thì đó là một cái nhìn khách quan. Hình tượng nhân vật Quang Trung do đó như có một thứ ánh sáng soi &o. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn những yếu tố duy tâm nằm ngoài nhận thức về quy luật lịch sử, về đời sống con người. Chẳng hạn như không ít lần khi tường thuật sự kiện hay ý nghĩ của nhân vật, nhà văn đã nói đến cơ trời. Cơ trời chính là thiên lý, là mệnh mà con người không cưỡng nổi. Kể trận chiến ở Ngọc Hồi, kẻ chủ động dùng hỏa hổ là quân Thanh.

Cách phản công này không phải là không có tác dụng vì kẻ chủ mưu có được một thứ vỏ bọc của sự tàng hình. Nhưng đột ngột thay, trong chốc lát trời trở gió. Đó là một biểu thị của cơ trời. Rồi khi Quang Trung kéo quân &o Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không hề hay biết. “Nào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi”. Đã là “thiên lý”, người hợp với nó là đại nghĩa, còn ngược lại là Tôn Sĩ Nghị, Lê Chiêu Thống, thất bại là lẽ đương nhiên.

Chính Lê Chiêu Thống đã thú nhận sự khoanh tay bất lực trước cái cơ trời, mệnh trời ấy khi y nói với Tôn Sĩ Nghị lúc chia tay “Cô không có tài, chẳng giữ nổi xã tắc. Đội ơn tướng quân vâng lệnh chỉ của hoàng đế sang cứu viện, nào ngờ lòng trời không giúp nước nhỏ, nay ngài lại bỏ mà đi. Kính chúc tướng quân về triều được hai chữ “vạn phúc”. Song, ngay trong cái yếu tố duy tâm này không hẳn chỉ mang ý nghĩa bị động. Cái tích cực lên ngôi mới thay cũ, nắng thay mưa. Khách quan, điều ấy hợp với lòng người.

Sự tiến bộ rất đáng ghi nhận ở đây chính là điểm đó, ở cái chỗ mà cuộc sống đã đem lại cho tác phẩm văn chương những chân lý nghệ thuật mới nằm ngoài định kiến hoặc sự áp đặt của bất kỳ ai.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 11

Chuyện vua Quang Trung đại phá quân Thanh, ngày nay, hẳn chẳng mấy ai còn không biết. Người dân Việt từ lâu đã từng thân thiết và tự hào với các chiếc tên Hà Nội, Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa… Nhưng hình như không phải ai ai cũng biết rằng, phần lớn những gì vẫn được ca ngợi về chiến công oai hùng đó lại không được lấy trực tiếp từ chính sử.

Phải đâu ai cũng tỏ tường rằng những hiểu biết lâu nay về sự kiện đại phá quân Thanh chính ra lại chứa đựng nhiều nhất trong một tác phẩm vẫn được coi là tiểu thuyết, cuốn sách mang tên Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc về Hà Nội, chứ không phải Hà Tây như nhiều sách đã ghi lầm). Quả thế, nếu muốn được thở hít lại bầu không khí như của các tháng ngày có chiến thắng tưng bừng đó thì không gì hơn là cùng đọc lại Hồi thứ mười bốn trong thiên tiểu thuyết lịch sử của văn phái họ Ngô.

Thế nhưng trong chủ đích của người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì Hồi thứ mười bốn này được soạn ra không cốt để ca tụng chiến thắng của Quang Trung. Ai còn hồ nghi xin đọc lại hai vế đối mở đầu, người làm sách, theo thường lệ của tiểu thuyết chương hồi, vẫn muốn qua đó để tự tóm tắt nội dung của toàn hồi truyện:

Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trậnBỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.

Rõ ràng, theo tác giả, đây là một đoạn truyện kể về vua Lê, ông nhìn từ phía vua Lê, theo đúng tinh thần “Hoàng Lê thống nhất”. Nên trong đoạn trích này của thiên tiểu thuyết, nếu có ai được gọi chỉ bằng một chữ “vua” thì kẻ đó nhất định phải là Lê Chiêu Thống, nếu có quân đội nào được gọi là “nghĩa binh” (quân chính nghĩa) thì đó cũng chỉ có thể là “quân đội nhà Lê (Bên cạnh đó lực lượng thực đáng gọi là nghĩa quân, nghĩa binh, quân đội Tây Sơn lại chỉ được gọi chung là “quân lính”, “quân sĩ”, không hề có chữ “nghĩa” nào bên cạnh).

&o khoảng cuối đoạn trích, người viết còn ghi lại chi tiết kể về cuộc gặp gỡ giữa mẹ con của Lê với người thổ hào tại một sơn trại thuộc vùng Hòa Lạc. Đấy không phải một sự cố ý tạo ra tình huống hài hước, để người đọc có dịp nhạo cười một kẻ ngu trung. Trái lại, tác giả dường như đã gắng công để cuộc gặp gỡ có ánh lên vẻ cao đẹp của 1 tấm lòng thần tử tận tụy, trung trinh, ngay cả khi đấng quân vương của mình đang cơn khốn khó.

Trong chi tiết này, thấy có cả mừng tủi lệ rơi, cả cơm gà vội &ng thết đãi, cả lối tắt đưa vua chạy loạn… tác giả như cố nhắn rằng: đối với các triều đại đa tàn kia, lòng người còn chưa nỡ bỏ, và dẫu vua Lê có lâm &o hoạn nạn thì trong đời vẫn chưa hết mối cô trung…

Có nghĩa là, xét về mặt lập trường chính trị, tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí đứng về phía đối địch với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Song may mắn làm sao họ Ngô đã không thể thắng chính mình. Mối tình cảm chính trị ấy không thắng nổi tình yêu sự thật, không thắng nổi lương tri, lương tâm của người biết nhận ra sự thật và tha thiết muốn nói lên sự thật. Tình cảm chính trị ấy đã không thể chuyển hóa thành sức mạnh văn chương, không đủ sức chi phối nội dung của văn chương.

Không biết người viết Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí có ngờ rằng, với công trình nghệ thuật này, mình đang viết bản án dành cho chính cái chế độ mình vẫn hằng tôn kính? Và con người phù Lê ấy liệu có tự giác nhận ra rằng mình đang tấu lên khúc ca dành cho những người đang chấm dứt số mệnh lịch sử của chính nhà Lê.

Nhưng đấy chính là sự thật. Một sự thật vô cùng thú vị khi ta tiếp nhận, thưởng thức và suy ngẫm về tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Tuy nhiên tác giả của những trang viết ta đang nói tới là một nhà văn, một người làm nghệ thuật. Tư cách nghệ sĩ không cho phép ông kể sự thật một cách phiến diện, giản đơn. Hồi chuyện được mở màn từ phía có vẻ như ngược lại.

Xem Thêm  11 Cách ghép ảnh trên iPhone đơn giản và nhanh chóng

Đội quân xâm lược nhà Thanh thoạt nhiên được nói tới cứ y như một đạo ác nghiệt binh, với sức mạnh lay thành phá ải, không gì có thể đương đầu: “Lại nói Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi như giẫm đất bằng, ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như &o chỗ không người”. Cứ xem đây thì chống chọi lại một đạo binh như thế này khác nào đem trứng chọi đá? Chưa hết, ngày liền sau đó, tác giả lại bồi thêm: “Từ xưa các nhà cầm quân chưa có khi nào được dễ dàng như thế”.

Nhưng sự dễ dàng chưa từng có gió, chính nó lại khiến cho những người từng trải, biết suy nghĩ có lý để mà ngờ vực. Từ rất lâu trước đấy, người xưa đã hiểu rằng cái gì đến độ thái quá, đến tột cùng thì thế nào cũng gặp phải sự biến. “Cùng tắc biến” (đến tận cùng thì phải thay đổi). Nhưng mà biến theo chiều trái lại.

Và cái mầm mống của sự biến ấy, tác giả đã không để cho người đọc phải chờ đợi lâu. Cổ nhân từ xưa đã dạy: “thắng không kiêu”, Nhưng đạo quân của Tôn Sĩ Nghị chưa kịp thắng trận nào cho ra thắng đã quá vội kiêu: “quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không có kỷ luật gì cả… Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân”. Mầm mống của bại vong đã được nứt nanh từ đây.

Chuyện trở nên rõ ràng hơn qua lời của người cung nhân cũ đến từ phủ Trường Yên. Không rõ những lời nói ấy về mặt sử học thì chính xác và sâu xa tới mức nào, chứ về mặt văn chương thì chi tiết này cực thú. Không hẳn chỉ nói những lời nói của người từng là cung nữ ấy đã phác họa ra đại cục, thắng lợi của vua Lê, nếu có, cũng chưa mang ý nghĩa gì lớn, mà mối nguy cho triều Lê thì quả đã như mồi lửa âm ỉ bên trong trường vách.

Cũng không hẳn chỉ vì những câu nói ấy đã sớm đem lại ấn tượng về một Nguyễn Huệ bách thắng, một Nguyễn Huệ kiêu hùng, từ trước khi Nguyễn Huệ bằng thịt bằng xương xuất hiện trên chương truyện: Xem hắn ra Bắc &o Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn…

Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đều phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống lại, thì địch sao cho nổi”? Âm vang của một chiến thắng hào hùng nghe như đã văng vẳng dần lên từ lời cảnh báo của cung nhân.

Cái thú văn chương trong chi tiết về người cung nhân còn có thể nhìn ra từ chỗ; nó cho thấy, hóa ra, một phụ nữ tầm thường, hèn mọn, bị vua ruồng bỏ, xa cung cấm đã lâu, thế mà còn thông tỏ binh tình gấp bội phần so với một Thái hậu “mẫu nghi thiên hạ” cao sang, quyền quý. Rồi đến khi bà Thái hậu đem chuyện ấy nói với vua, vua nói lại với Tôn Sĩ Nghĩ thì ta còn vỡ lẽ: những kẻ nắm binh quyền dương dương tự đắc kia, còn không có nổi một kiến thức đàn bà!

Vậy là một người phụ nữ vô danh cũng đã thừa khả năng mở mắt cho cả một bộ sâu triều đình, vua quan, tướng tá về cách đánh, tình thế, cách cầm quân. Lời nói của cung nữ xưa quả đã khiến Thái hậu phải “giật mình” và vua Lê “hoảng sợ”. Nhưng cũng chỉ đến thế thôi. Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí nhận ra và đã muốn chúng ta cùng thấu hiểu: Không gì có thể đem lại cho bè lũ bạc nhược kia sức mạnh trong ý chí và hành động.

Bọn chúng đã không hành động, dù cho có lo lắng có giận dữ trách mắng nhau. Bởi vì nỗi lo âu, lời quát nạt rồi cũng chóng qua đi. Và bọn người đó lại tiếp tục nằm ườn ra trên lạc thú, lười biếng tự dối lừa mình trong ý nghĩ: “Cần phải tính toán cho chu đáo không thể hấp tấp và uể oải đợi chờ đến sang xuân, &o ngày mùng sáu thì sẽ xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa”…

Nhà văn đã cho ta thấy một mầm mống bại vong nữa của bè lũ Lê Chiêu Thống. Nó nằm trong bản chất của một chế độ đã không còn khả năng hành động, không còn đủ sức mạnh, ý chí, quyết tâm để mà hành động. Và Bên cạnh đó bọn cướp nước bán nước cứ đờ đẫn đi, rã rời ra trong kiêu căng và trễ nải thì người anh hùng áo vải Tây Sơn lại khẩn trương làm được một núi việc khổng lồ.

Quả thế, nếu quân Thanh không làm gì khác ngoài việc ăn chơi thì quân Tây Sơn lúc nào cũng ráo riết trong chuẩn bị. Phía quân Thanh im lìm bất động : Ngược lại, phía bên Tây Sơn, tình hình chuyển biến từng ngày. Hẳn chẳng phải là tình cờ, khi chuyển mạch truyện sang phía thời gian nối tiếp nhau, dồn dập: “Ngày 20 tháng ấy (tháng 11 âm lịch, năm Mậu Thân 1788). Sớ lui về Tam Điệp thì ngày 24 Tuyết đã &o đến Phú Xuân”.

Chỉ một tháng sau, Nguyễn Huệ đã làm xong mọi việc đắp khắp trong ngoài” và “hạ lệnh xuất quân, hấp ôm ấp ấy, nhằm ngày 25 tháng chạp”. Bốn ngày sau “ngày 29 đến Nghệ An”. Hơn một vạn quân được quân kén ngay sau đó, lập tức được đưa &o cơ ngũ chỉnh tề. Để rồi ngày 30. Quân đến Tam Điệp và ngay tối hấp ủ ấy, năm cánh hùng binh tràn ngập Bắc Hà, sau khi đã kịp mở tiệc khao quân, ăn Tết trước.

Ta đang được chứng kiến văn chương của Hoàng Lê Nhất Thống Chí một cỗ máy vận hành hết công suất, một hơi thở mạnh mẽ, gấp gáp, một dòng máu chảy sục sôi trong huyết quản, một sức sống rạo rực, bừng bừng, đầy phấn chấn. Tác giả Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thuộc về một dòng họ danh vọng bậc nhất trên đất Bắc. Còn Nguyễn Huệ xuất thân từ một người áo vải miền Trung.

Song không vì thế mà văn phái Ngô gia đã vội nhìn lãnh tụ Tây Sơn chỉ như một kẻ võ biền, một kẻ nông phu ít học. Ngược lại, người con của dòng họ Ngô Thì đã vượt qua rất nhiều thành kiến để đem lại cho người đọc sự thật về một Quang Trung giàu tri thức và thông đạt lòng người. Hãy lắng nghe lại một lời hiểu dụ của Hoàng đế Quang Trung trong cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn tại Nghệ An.

Có phải là ta đã nhận ra, từ phía dưới lời văn, cái hồn phách thiêng liêng của một Nam quốc sơn hà, cái giọng khích lệ nghiêm nghị của một Hịch tướng sĩ, và nhất là cái âm hưởng dõng dạc, chứa đầy căng một niềm bất khuất, tự hào ở những dòng đầu tiên của áng thiên cổ hùng văn Bình ngô đại cáo? Chắc chắn phải là một trí tuệ, một tâm hồn cao rộng lắm mới có thẻ gồm có và chung đúc được chừng ấy tinh hoa trong một bài nói làm lay động lòng người.

Nhưng tác giả sẽ dần dần cho ta hiểu hai khối tự tin kia nặng nhẹ rất khác nhau. Sự tự tin của quân Thanh là sự tự tin kiêu ngạo và mù quáng, tự tin trong ảo tưởng, không biết gì về đối phương, không biết gì về tình thế. Dường như niềm tự tin bên phía Tây Sơn được đảm bảo chắc nịch rằng bằng cả một công phu chuẩn bị, từ lực lượng phương tiện chiến đấu đến việc nuôi dưỡng, hun đúc chí quyết tâm. Vì thế, khi chiến dịch thực sự diễn ra thì đó là trận đánh giữa một bên là gan dạ, là hào khí ngất trời với bên kia chỉ thấy hoảng loạn đớn hèn, khiếp nhược.

Cái chiến dịch phi thường ấy, trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chỉ được kể lại bằng thứ ngôn ngữ rất bình thường của truyện, của văn xuôi. Và kể không dài, khi in &o sách giáo khoa thì cũng còn chưa đầy nổi hai trang giấy. Nhưng đó là hai trang giấy vô cùng quý giá, vì nó đã ghi lại không chỉ thật chân thực mà còn thật sống động, thật có không khí một chiến thắng cho hôm nay vẫn là thần tốc nhất trong lịch sử Việt Nam.

Người đọc truyện có thể qua đây mà hình dung ra một chuỗi trận đánh nối tiếp nhau, trận nào cũng hùng tráng, trận nào cũng như chớp nhoáng, mà không trận nào giống trận nào. Có trận đánh ở hai sông, sông Gián và sông Thanh Quyết, hết cái gọi là “Nghĩa binh” của Lê Chiêu Thống, lại đến quận Thanh mới trông thấy bóng quân Tây Sơn từ xa đã sợ mất mật mà tự tan, mà tháo chạy, để rồi bị tóm gọn sống không thoát một tên.

Rồi tới trận Hà Hồi, binh uy của vua Quang Trung đúng là như sấm động, chỉ cần dạ ran lên cũng lấy được đồn. Chỉ thấy quân Thanh chống cự một lần duy nhất ở Ngọc Hồi, nhưng sự chống cự mới yếu ớt và ngắn ngủi làm sao! Chúng bắn ra để chẳng trúng người nào. Chúng dùng ống phun khói lửa ra, để tự chịu một trận hỏa công khi trời trở gió.

Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí càng viết lại càng cho ta thấy rõ sự khác nhau một vực một trời một vực giữa bè lũ Tôn Sĩ Nghị – Lê Chiêu Thống với quân tướng của Quang Trung. Với quân Thanh, súng đạn và ống phun lửa cũng chẳng có nghĩa gì, chẳng làm được việc gì ngoại trừ việc tự đốt mình.

Còn với quân Tây Sơn, những vật dụng sinh hoạt thông thường như ván, như rơm cũng đã đủ khiến họ trở nên vô địch. Quân Thanh chỉ chạy thôi cũng đã chết hàng vạn đứa, như Mực, Quỳnh Đô. Còn đội quân xung kích của Quang Trung trong trận Ngọc Hồi tính ra chỉ khoảng sáu trăm, vậy mà vẫn phá xong một tuyến phòng thủ kiên cố nhất.

Cái có của lũ cướp nước và bán nước, như người viết tác phẩm này cho thấy, là quân đông, vũ khí nhiều. Nhưng ý chí chiến đấu, tinh thần chiến đấu, sự sẵn sàng cho chiến đấu lại là cái chúng không hề có. Tuyệt nhiên không thấy ở bọn này, dù chỉ một chút cái ý thức mà Trần Quốc Tuấn trước đây đã ghi tạc &o lòng dạ của các tướng dưới quyền mình: “nên nhớ câu” đặt mồi lửa &o dưới đống củi” làm nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội “làm răn sợ”.

Tác giả hồi truyện này cho thấy rõ : bọn chúng cứ yên tâm kề cà, dềnh dàng yến ẩm trên đống lửa, không hề lo chi đến việc bất trắc”. Để rồi khi lửa cháy lên thì việc độc nhất chúng thật khẩn trương làm không phải là cứu hỏa, mà là bỏ chạy cho nhanh. Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thực tế đã thành tấm bia miệng còn vững chắc gấp hàng chục, hàng trăm lần bia đá, để ghi lại cho muôn đời sau chê cười sự hèn nhát của một lũ vua quan tướng tá.

Những chi tiết cụ thể, sinh động được nêu ra ở đây, quả thật hùng hồn hơn mọi lời nghị luận. Quang Trung là vua, nhưng vẫn tự mình cưỡi voi đốc chiến. Còn Tôn Sĩ Nghị, thân làm tổng chỉ huy, nhưng chưa xung trận đã sợ hãi tháo chạy, vội vã tới mức “Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp”.

Quân lính dưới quyền cũng không hề chiến đấu mà chỉ biết chạy theo, để rồi sự hèn nhát chịu đòn trừng phạt cuối cùng: không ai đánh mà quân chết đuổi nhiều tới mức một dòng sông lớn như Nhị Hà mà nước cũng phải tắc nghẽn, không chảy nổi.. Mẹ con vua Lê thì bị bỏ rơi, phải qua sông bằng thuyền đánh cá, leo đào mãi mới gặp được Tôn Sĩ Nghị, thế mà vẫn phải chịu nhục nhã tỏ ra sự biết ơn và tri ân: “Đội ơn tướng quân… Đều là ơn của tướng quân ban cho!”.

Người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí, dù muốn dù không, thì vẫn phải nhận rằng: sức mạnh duy nhất trong trận chiến chỉ có thể tìm thấy từ phía của quân đội Tây Sơn.. Sức mạnh ấy có nguồn gốc ở nhân dân. Dùng ván phủ rơm dấp nước kết lại thành lá chắn, thành tường chống đạn để xung phong, một sự khôn ngoan kì lạ thế không thể được sinh ra từ bọn người hoa xa hoa, quyền quý.

Và sự phấn khích, đồng lòng muôn người như một, không ngại khó nhọc, không quản hi sinh, tình cảm ấy chính là ánh lửa rực rỡ cháy lên từ tinh thần yêu nước của khối quần chúng nhân dân vĩ đại. Sức mạnh vô địch của nhân dân cộng với tài trí vô song của người lãnh đạo đã làm cho đội quân của những người áo vải thông thường phút chốc lớn vụt lên sánh ngang thần thánh, uy thế chấn động trời đất, ẩn hiện, biến hóa xuất quỷ nhập thần, “tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên”. Và Hồi thứ mười bốn này của Hoàng Lê Nhất Thống Chí sẽ được thực sự trở thành một khúc ca, với những câu văn cứ làm như ta phải nhớ không nguôi tới Bình Ngô Đại Cáo.

Rồi trong hồi truyện ấy, tác giả sẽ còn cám cảnh cho Lê Chiêu Thống khi phải chạy khỏi Thăng Long. Rồi tác giả sẽ còn khép hồi truyện này bằng hai dòng thơ, như muốn gợi rất nhiều lâm li, bi lụy:

Bờ cõi xong bề tính liệuNước non buồn nỗi lúc chia ly

Nhưng có lẽ họ Ngô đã hoài công. Tình cảm xót xa có lẽ đã không thể truyền &o lòng của số đông người đọc truyện. Bởi trước đó, người viết đã quá thành công trong việc dựng lên chân dung của một triều đại không còn sức sống: một triều đại cần phải chia tay, phải đưa tiễn xuống mồ một cách vui vẻ chứ không phải một cách buồn đau. Người viết cũng đã quá thành công trong việc tạo ra cảm giác: chiến thắng oai hùng này quả thật là thuộc về người xứng đáng, quân khởi nghĩa Tây Sơn dưới sự dẫn dắt của vị anh hùng dân tộc Quang Trung.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 12

“Hoàng Lê nhất thống chí” được viết bằng chữ Hán. Tác phẩm ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê &o thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Nó không chỉ dừng lại là sự thống nhất của vương triều nhà Lê, mà còn được viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam &o 30 năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ XIX. Văn bản là hồi thứ 14, viết về sự kiện Quang Trung đại phá quân Thanh.

Ngô Gia Văn Phái là một nhóm tác giả dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Dòng họ Ngô Gia là một dòng họ tài danh của đất kinh kì, không những có nhiều người làm quan lớn, có quan hệ rất mật thiết với triều đình mà tài văn chương cũng đứng đầu thiên hạ. Hoàng Lê nhất thống chí là kì công hợp lực của nhiều văn nhân thuộc nhiều thế hệ của dòng họ Ngô Gia. Có thể coi đây là bộ tiểu thuyết lớn nhất, có nhiều giá trị nhất của nền văn học trung đại.

Qua Hồi thứ 14, với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm hại của quân tướng nhà Thanh và số phận thảm thương, bi ai của vua tôi Lê Chiêu Thống. Cách kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động cụ thể, gây được ấn tượng mạnh.

Trước thế mạnh của giặc, quân Tây Sơn ở Thăng Long, rút quân về Tam Điệp và cho người &o Phủ Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ. Nhận được tin ngày 24/11, Nguyễn Huệ liền tổ chức lại lực lượng chia quân làm hai đạo thuỷ – bộ. Ngày 25 tháng Chạp, làm lễ lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung, trực tiếp chỉ đạo hai đạo quân tiến ra Bắc. Ngày 29 tháng Chạp, quân Tây Sơn ra đến Nghệ An, Quang Trung cho dừng lại một ngày, tuyển thêm hơn 1 vạn tinh binh, mở một cuộc duyệt binh lớn. Ngày 30, quân của Quang Trung ra đến Tam Điệp, hội cùng Sở và Lân. Quang Trung đã khẳng định : “Chẳng quá mười ngày có thể đuổi được người Thanh”. Cũng trong ngày 30, giặc giã chưa yên, binh đao hãy còn mà ông đã nghĩ đến kế sách xây dựng đất nước mười năm sau chiến tranh. Ông còn mở tiệc khao quân, ngầm hẹn mùng 7 sẽ có mặt ở thành Thăng Long mở tiệc lớn. Ngay đêm đó, nghĩa quân lại tiếp tục lên đường. Khi quân Tây Sơn ra đến sông Thanh Quyết gặp đám do thám của quân Thanh, Quang Trung ra lệnh bắt hết không để sót một tên.

Từ rạng sáng ngày 3 Tết, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận tưng bừng khiến quân thanh khiếp sợ, kinh hồn bạt vía. Đến trưa mùng 5 Tết, Quang Trung đã dẫn đầu đoàn quân thắng trận tiến &o Thăng Long, kết thúc trận tiến quân lịch sử, quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

Hồi thứ 14 cũng đã khắc họa đậm nét hình ảnh người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ hiện lên với những anh tài kiệt xuất, hiếm có ở trên đời. Trước hết, ông là vị vua hết lòng yêu nước, thương dân. Nghe tin quân giặc đã kéo &o thành, lòng ông sôi sục, muốn cầm quân đi đánh ngay. Tấm lòng yêu nước, thương dân lớn lao của vị anh hùng lúc nào cũng lo lắng cho vận mệnh đất nước, chán ghét kẻ ác nghiệt bạo, tham lam. Bởi thế, khi kẻ thù giày xéo lên quê hương, cướp bóc dân chúng lầm than, ông không thể tha thứ được. Khi đất nước sạch bóng quân thù, ông lại tiếp tục đem tâm huyết an dân, mở mang sản xuất, dựng xây cuộc sống yên bình. Tấm lòng của bậc minh quân thật lớn lao biết chừng nào.

Quang Trung là người biết nhìn người và trọng dụng anh tài. Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sư “đa mưu túc tri’ việc Sở và Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao.

Quang Trung cũng là người thông minh, nhạy bén, quyết đoán, hành động quyết liệt, mạnh mẽ. Tính ông nói là làm, rất nhanh chóng và gọn gàng. Quân giặc vừa đặt chân &o thành, ông đã vạch ra mưu kế đánh giặc. vì thế luôn hành động mạnh mẽ, ông đã cùng nghĩa quân làm nên cuộc hành binh thần tốc, tạo nên tính bất ngờ, là cơ sở của những chiến công hiển hách, khiến kẻ thù kinh hồn bạt vía, đến lúc thua chạy cũng không biết là bởi vì sao.

Quang Trung là người có tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”. Đang ngồi trên lưng ngựa, Quang Trung đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm tới ta hòa bình hết sức rõ ràng. Đối với địch, thường thì biết là thắng việc binh đao không thể dứt ngay được vì nỗi sỉ nhục của nước lớn còn đó. Cho nên, sau chiến thắng là phải thực hiện ngoại giao hòa hoãn để đợi thời cơ. Ông khẳng định: nếu “chờ 10 năm nữa ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng”.

Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người. Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch từ 25 tháng chạp đến mùng 7 tháng giêng sẽ &o ăn tiết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức 2 ngày. Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng đội quân vẫn chỉnh tề, bí mật được giữ kín, không phiền nhiễu nhân dân, sức mạnh được duy trì cũng là do tài tổ chức của người cầm quân.

Vua Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông làm tổng chỉ huy chiến dịch thực sự, là một dũng tướng tài ba trên xa trường. Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận hoành tráng, thắng áp đảo kẻ thù. Khí thế đội quân làm cho kẻ thù khiếp vía và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc họa lẫm liệt: trong cảnh “khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì”, nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.

Hình ảnh người anh hùng được khắc họa đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần. Quang Trung Nguyễn Huệ là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại.

Mơ ước về một vị anh hùng trượng nghĩa giúp nước, giúp đời, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa đậm nét nhân vật Lục vân Tiên với đầy đủ những phẩm chất cao quý, thậm chí là phi thường. Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng, hội tụ đầy đủ những chuẩn mực của một người anh hùng nghĩa hiệp, tuổi trẻ, tài cao, lòng đầy khát khao được đem công danh, nhân tài cứu người, giúp đời.

Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, những phẩm chất của người anh hùng trọng nghĩa khinh tài và bậc quân tử thanh liêm, chính trực được bộ lộ rõ nét. Trước bọn cướp dữ bạo, chàng gan dạ tả xông hữu đột đánh cho chúng một trận tơi bời:

“Lâu la bốn phía vỡ tan,Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay”.

Trước Kiều Nguyệt Nga, chàng giữ lễ đúng mực:

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra,Nàng là phận gái, ta là phận trai.”

Trước mong muốn đền đáp ơn cứu giúp, chàng khảng khái chối từ, nêu cao đạo lí nhân tình ở đời:

“Vân Tiên nghe nói liền cười:Làm ơn há dễ trông người trả ơn.Này đà rõ đặng nguồn cơn,Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?Nhớ câu kiến ngãi bất vi,Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

Lục Vân Tiên quả thực là một người rất chính trực, anh hùng, chính nghĩa và nhân hậu, là hình tượng gửi gắm niềm tin và ước mong của nhân dân ta đem đến một xã hội công bằng.

Hồi thứ 14 trong tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí biểu đạt rõ xu thế lịch sử của nước ta thế kỉ 18. Với ý thức tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc, những người trí thức, các tác giả Ngô Gia Văn Phái vốn là những cựu thần chịu ơn sâu, nghĩa nặng của nhà Lê nhưng họ đã không thể bỏ qua sự thực vua nhà Lê yếu hèn đã cõng rắn cắn gà nhà và ghi nhận chân thực chiến công lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn, làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung – người anh hùng áo vải, niềm tự hào lớn của cả dân tộc.

Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 13

“Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm tác giả Ngô gia văn phái từ lâu đã được xem là cuốn sách lịch sử đặc biệt quan trọng, là cuốn tư liệu quý giá cho các nhà sử gia nước nhà. Tuy nhiên, vượt ra khuôn khổ giá trị của cuốn sách lịch sử thông thường, tác phẩm còn mang một giá trị văn chương hay, độc đáo, rất tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi. Toàn bộ tác phẩm gồm có mười bảy hồi.

Đó là một chuỗi câu chuyện lịch sử dài, với biết bao lăm là những biến cố thăng trầm, đầy dữ dội, đau thương, đẫm máu và nước mắt của các triều đại phong kiến Việt Nam từ ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII đến mấy năm đầu thế kỉ XIX; từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa cho đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà, lật đổ triều đại Tây Sơn, lập nên triều đại Gia Long – nhà Nguyễn. Trong tác phẩm, tiêu biểu có Hồi thứ mười bốn: “đánh Ngọc Hồi quân Thanh thua trận.

Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài”, là một phần hay nhất của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”. Tác giả đã dựng lên bức chân dung về người anh hùng áo vải dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh và tái hiện sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận ai oán của vua tôi Lê Chiêu Thống một cách chân thực, sinh động.

Có thể nói, dưới ngòi bút của nhà văn, người đọc như đang sống lại những giờ phút đau thương của lịch sử dân tộc khi mà &o cuối năm Mậu Thân 1788, đầu năm Kỉ Dậu 1789, vua Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị chiếm được thành Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở phải tạm thời rút lui về Tam Điệp để phòng thủ.

Đứng trước vận mệnh lịch sử Việt Nam “ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ hiện lên như một vị cứu tinh chói lọi của dân tộc ta. Nhận được cung cấp thông tin Nguyễn Huệ giận lắm, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Chỉ trong vòng hơn một tháng trời, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc: Ngày 25 lên ngôi hoàng đế, “tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi”, rồi đốc thúc đại quân tiến ra Bắc.

Ngày 29 tới Nghệ An, nhà vua cho tuyển thêm quân sĩ và mở một cuộc duyệt binh lớn, thu nạp được hơn một vạn quân tinh nhuệ; sau đó đưa ra lời phủ dụ, vạch rõ âm mưu và sự tàn độc của quân xâm lược phong kiến phương Bắc, nêu cao truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc và đưa ra lời hiệu triệu kêu gọi các quân sĩ “đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn”.

Lời phủ dụ như sấm truyền bên tai, như một lời hịch mang âm hưởng vang vọng của sông núi, kích thích lòng yêu nước và truyền thống anh hùng của dân tộc. Chưa dừng lại ở đó, nhà vua còn hoạch định kế hoạch hành quân “lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đánh đuổi được người Thanh” rồi chia quân sĩ ra làm năm đạo”. Hôm đó là ngày 30 tháng chạp, vua cho tổ chức mở tiệc khao quân , hẹn đến ngày mồng bảy năm mới thì &o thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng…

Qua đó, ta thấy vua Quang Trung – Nguyễn Huệ hiện lên là một con người có hành động mạnh mẽ, xông xáo, có trí tuệ sáng suốt trong nhận định tình hình địch ta và là người biết nhìn xa trông rộng, chưa thắng nhưng nhà vua đã nghĩ tới quyết sách ngoại giao, kế hoạch hòa bình trong mười năm tới.

Tác giả đã mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa diễn ra: “Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, gan dạ và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc &o Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng &o mặt hắn.

Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét”. Lời nhận xét đó không phải là không có căn cứ. Điều này được thể hiện rất rõ, rất chân thực, cụ thể trong cuộc điều binh khiển tướng trực tiếp của nhà vua. Trong chiến trận, vua Quang Trung hiện lên oai phong, lẫm liệt, có tài thao lược hơn người. Có thể nói dưới bàn tay chỉ huy của nhà vua, quân đi đến đâu, giặc bị tiêu diệt tới đó.

Lúc đi đến sống Gián và sông Thanh Quyết, toán quân Thanh vừa trông thấy bóng nhà vua đã “tan vỡ chạy trước”; tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc vua lặng lẽ cho vây kín làng rồi dùng mưu bắt loa truyền gọi khiến quân Thanh “ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết”; sáng mùng 5 tết tiến sát đồn Ngọc Hồi, đề phòng trước mũi súng của giặc, vua Quang Trung đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, theo sau là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ “nhất” tiến thẳng &o đồn.

Vì thế, súng giặc bắn ra đều vô tác dụng. Nhân có gió bắc, quân Thanh dùng súng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, hòng làm quân ta rối loạn, không ngờ bỗng trời trở gió nam ngược lại, thành ra quân Thanh tự hại mình. Trước tình thế nghìn năm có một ấy, nhà vua liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che, xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất cứ nấy dao ngắn thủ sẵn trong tay áo mà chém.

Kết quả, quân Thanh “thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”. Thừa thắng xông lên, vua Quang trung lẫm liệt, oai phong cưỡi voi tiến &o giải phóng thành Thăng Long &o trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu – trước kế hoạch hai ngày. Giặc bỏ chạy, vua cho phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, vây quân Thanh ở Quỳnh Đô, giặc chạy xuống đầm Mực, cuối cùng bị quân Tây Sơn ” lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người”.

Nhà văn đã tả thật chi tiết, sinh động sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua quan phản nước hại dân bằng một giọng điệu vừa bùi ngùi xót xa, lại vừa mạnh mẽ, tự hào. Vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo quân &o thành. Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở Thăng Long chỉ chăm chú &o ngày tết, yến tiệc vui mừng, không lo chi đến việc bất trắc.

Ngược lại, quan quân ta mạnh mẽ như hổ báo, thế như chẻ tre, như “tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”. Vì bị đánh úp bất ngờ, không có chuẩn bị, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ nhằm hướng bắc mà chạy; Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự vẫn; quân sĩ nhà Thanh đều “hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”.

Còn số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước hại dân Lê Chiêu Thống cũng phải chịu cảnh nhục nhã của kẻ vong quốc. Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ thân tín “đưa thái hậu ra ngoài”, bỏ chạy, cướp cả thuyền dân để qua sống, may được người thổ hào giúp cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi ” cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”, sau này phải cạo đầu tết tóc như người Mãn Thanh…

Đến đây, chúng ta mới thấy hết được tác giả Ngô gia văn phái là những con người tôn trọng lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan. Mặc dù, họ vốn dĩ là cựu thần nhà Lê, ăn bổng lộc triều Lê, không có thiện cảm với quân Tây Sơn, thậm chí xem Tây Sơn như là kẻ thù, nhưng họ vẫn viết về Quang Trung và những chiến công của đoàn quân áo vải một cách thật hả hê, mạnh mẽ, tự hào.

Điều đó có được là do ý thức dân tộc của những trí thức có lương tri, lương tâm. Họ đã thấy được những cái hạn chế, sự thối nát, hèn mạt của nhà Lê và dã tâm xâm lược độc ác, hống hách của quân Thanh nên họ không thể đứng đó mà ngoảnh mặt làm ngơ được. Qua đó, chúng ta cảm thấy thật tâm phục, khẩu phục trước ý thức, trách nhiệm và tình yêu đất nước dân tộc của nhóm tác giả Ngô gia văn phái.

Đoạn trích “Hồi thứ mười bốn” trong “Hoàng Lê nhất thống chí” là một đoạn trích hay, độc đáo, có nhiều thành công về mặt nghệ thuật: kể tả đan xen rất sinh động, cụ thể, gây được ấn tượng mạnh; giọng điệu biến đổi linh động, phù hợp với từng đoạn văn, từng hoàn cảnh lịch sử. Cảnh tháo chạy của quân tướng nhà Thanh được miêu tả dưới cái nhìn hả hê, mãn nguyện của người thắng trận trước sự thất bại thảm hại của kẻ thù cướp nước: âm hưởng nhanh, dồn dập, gợi sự tán loạn, tan tác.

Cảnh bỏ chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả dài hơn, âm hưởng chậm, toát lên vẻ chua xót, ngùi ngùi… Đặc biệt sự thành công nổi bật trong đoạn trích là nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật với đầy đủ diện mạo tới bản chất: Tôn Sĩ Nghị (tướng nhà Thanh) thì kiêu căng, ngạo mạn, khi bị quân Tây Sơn đánh đến thì “sợ mất mật” hèn hạ dẫn quân bỏ chạy;

Vua Lê Chiêu Thống hiện lên là con người ích kỉ, vì lợi ích dòng họ mà trở thành kẻ phản động, đớn hèn, nhục nhã cướp cả thuyền dân mà bỏ trốn; Còn vua Quang Trung – nhân vật chính trong truyện lại hội tụ biết bao phẩm chất của một người anh hùng “văn võ song toàn”, đầu đội trời chân đạp đất… Tất cả đã hòa với nhau làm một, tạo nên sự thành công tuyệt vời của một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi.

Khép lại đoạn trích “Hồi thứ mười bốn” người đọc thấy được những âm mưu hung của quân xâm lược phương Bắc đối với dân tộc ta. Đồng thời, qua đoạn trích ta càng cảm thấy tự hào hơn về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc Việt Nam, nhằm nhè và biết ơn sâu sắc những con người anh hùng, trong đó có nhà vua, nhà quân sự tài ba Quang Trung – Nguyễn Huệ.

 

Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp

Recommended For You

About the Author: badmin

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *