Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Thành Hà Nội từ bị tấn công, thất thủ đến đến chiếm đóng và phá hủy. Bài viết ha noi 1873 tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
Tài liệu lưu trữ về thành Hà Nội nguyên là tài liệu thuộc phông Đô đốc và các Thống đốc đầu tiên của Nam Kỳ từ 1858 đến 1887 được dữ gìn và bảo vệ tại Kho của Phủ Thống đốc Nam Kỳ ở Sài Gòn. Gần 2 năm sau khi Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương được thành lập theo Nghị định ngày 29-11-1917 của Toàn quyền Đông Dương, ngay từ khi Kho Lưu trữ Trung ương còn chưa được xây dựng[1], &o năm 1919, Giám đốc Paul Boudet đã cho chuyển ra Hà Nội một &i phông đóng (fonds clos), trong đó có những tài liệu nói trên. Đây là những tài liệu cực kỳ có giá trị, phản ánh quá trình xâm lược Việt Nam của quân đội viễn chinh Pháp từ những ngày đầu tiên ở Nam Kỳ, những cuộc dàn xếp với triều đình Huế, quá trình “bình định” Bắc Kỳ và những “thử nghiệm” đầu tiên về bộ máy cai trị hành chính của chính quyền thực dân ở Bắc Kỳ…
Bạn Đang Xem: Thành Hà Nội từ bị tấn công, thất thủ đến đến chiếm đóng và phá hủy
Trước khi được chuyển ra Hà Nội, tài liệu của phông này hầu như “bị bỏ quên” trong một góc của Phủ Thống đốc Nam Kỳ. Có lúc, &i trong số tài liệu này được “chuyển theo hành lý của các viên Thống đốc mỗi khi họ chuyển đi nhậm chức ở nơi khác”[2]. Vì thế, những tài liệu này đương nhiên còn lại không đầy đủ.
Từ sau năm 1930, do tài liệu nộp về Kho Lưu trữ trung ương ngày một nhiều nên Kho gần như hết chỗ chứa. Để giải quyết tình trạng này, Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã cho chuyển về Chính quốc tài liệu của một số phông đóng, trong đó có phông Đô đốc – Thống đốc nói trên. Thời gian đầu, những phông này được bảo quản tại Lưu trữ của Bộ Pháp quốc Hải ngoại ở Paris nhưng sau năm 1966 thì được chuyển về bảo quản tại Lưu trữ Quốc gia hải ngoại ở Aix-en Provence. Phông này ngày nay được sáp nhập với phần lớn phông Phủ Toàn quyền Đông Dương mang từ Việt Nam về theo thoả ước ký kết giữa chính phủ Pháp và chính quyền Bảo Đại năm 1950 thành phông Đô đốc và Toàn quyền Đông Dương (1858-1845).
Tuy nhiên, trước khi được chuyển về Chính quốc, một số tài liệu có giá trị đã được Boudet cho sao lại để phục vụ nhu cầu khai thác của các công sở và các nhà nghiên cứu (chủ yếu là người Pháp) ở Đông Dương. Đáng chú ý nhất trong số tài liệu đã được sao lại phải kể đến những tài liệu có ảnh hưởng đến hai lần đánh chiếm thành Hà Nội của Pháp &o năm 1873 và 1882, trong đó có hàng loạt tài liệu phản ánh biện pháp hành động xâm lược với những từ ngữ hết sức ngạo mạn của những sĩ quan trong quân đội viễn chinh Pháp thời kỳ này[3]. Có thể nói rằng, đây là những tài liệu vô giá, bổ sung cho các công trình nghiên cứu về Hà Nội thời kỳ cận đại của các học giả phương Tây đương thời và của các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam ngày nay.
Bài 1: CUỘC TẤN CÔNG THÀNH HÀ NỘI LẦN I NĂM 1873
Qua một số công trình và một số sách của các nhà nghiên cứu phương Tây đương thời đã từng được tiếp cận tài liệu của phông Đô đốc – Thống đốc, qua một số tài liệu của cùng phông do tác giả đã nghiên cứu tại Pháp, qua một số tài liệu của triều Nguyễn và các bài vè trong vhọc hành dân gian được phản ánh trong các công trình nghiên cứu của giới sử học Việt Nam, sự kiện Pháp tấn công thành Hà Nội lần I với các lý do và diễn biến sự kiện được phục dựng lại tương đối chi tiết[4].
Năm 1867, sau khi chiếm được Nam Kỳ lục tỉnh, cùng với việc cấu hình thiết lập thiết lập hệ thống chính quyền cai trị ở đây, chính quyền Pháp ở Sài Gòn đã coi việc đánh chiếm Hà Nội và một số tỉnh Bắc Kỳ là “một vấn đề sinh tử cho thuộc địa Sài Gòn, vấn đề sống còn cho tương lai của sự thống trị của người Pháp ở Viễn Đông” bởi họ nhìn thấy ở Bắc Kỳ một tiềm năng khai thác lớn, nhất là con đường thương mại qua sông Hồng.
Lợi dụng việc “giải quyết vụ lái buôn Jean Dupuis[5] gây ra ở Hà Nội” ngày 11-10-1873, đại úy hải quân Francis Garnier[6] được phái ra Bắc Kỳ, bản tính nhằm “khai thông đường sông Hồng và khai trương cảng Hà Nội”. Ngày 5-11-1873, Garnier tới Hà Nội, đóng quân tại Trường Thi. Ngay hấp ủ sau, Garnier gửi lời hiệu triệu quân bộ đội của mình, nhấn mạnh rằng nhiệm vụ của họ khi ra Hà Nội là “để bảo vệ các lợi ích của nền văn minh và của nước Pháp”.
Tuy nhiên, ngay khi đặt chân đến Hà Nội, Garnier đã nhận được thư của Khâm sai Nguyễn Tri Phương[7] bày tỏ thái độ cương quyết trước những hành động gây hấn của Jean Dupuis.
Ngày 10-11-1873, Nguyễn Tri Phương cho niêm yết khắp nơi lời hiệu triệu toàn quân, toàn dân Hà Nội chống Pháp trong đó tuyên bố rõ ràng: “Garnier đến đây chỉ để xét xử và đuổi Dupuis đi. Xong việc, ông ta nên cần phải rút lui, vì ông ta không có một thứ quyền nào can thiệp &o công việc của đất nước ta”[8].
Ngày 12-11-1873, Garnier gửi tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương, buộc Ông phải hạ khí giới, giao nộp thành Hà Nội &o ngày 18-11-1873. Ngày 19-11, Garnier gửi tối hậu thư lần II cho Nguyễn Tri Phương, đòi tước toàn bộ vũ khí trong thành, yêu cầu chính quyền các tỉnh Bắc Kỳ phải chấp hành mệnh lệnh của Garnier và cho phép Dupuis được tự do đi tới Vân Nam. cả 2 lần, Nguyễn Tri Phương đều không trả lời mà chỉ tích cực cho quân dân chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Ngày 20-11-1873, thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội.
Đúng 6h sáng, hai pháo thuyền của Pháp trên sông Hồng là Scorpion[9] và Espingole[10] từ cự ly 1.200m đồng loạt bắn đại bác bỏ bỏ bỏ bỏ bỏ bỏ cỡ lớn &o cửa Tây và cửa Bắc thành Hà Nội.
Mặt trận chính được Garnier chọn là đánh chiếm các cửa thành phía nam, đặc biệt là cửa Đông-Nam. Theo phân công, Treintinian cùng Esmez và Garnier tấn công cửa Đông-Nam, còn toán quân của Dupuis chiếm đóng cổng thành phía bắc. Dupuis chỉ huy một toán quân chiếm đóng lầu canh hình bán nguyệt và mở cổng thành còn đội quân đặc nhiệm của Garnier chia thành hai cánh: cánh thứ nhất do trung úy, phó thuyền trưởng Bain de la Coquerie[11], chỉ huy đại đội đổ bộ của tàu Décrès với 30 binh sĩ kèm theo một khẩu pháo lấy từ tàu chiến Decrès kéo tới dàn trận trước cổng thành phía Tây-Nam để nghi binh, giả tấn công &o mặt này nhằm đánh lạc hướng quan binh trong thành. Chi tiết của sự kiện này được phản ánh trong văn bản văn bản lên tiếng của Coquerie gửi Garnier còn được lưu giữ tới ngày nay:
“Thưa Ngài đại úy[12],
Xem Thêm : 1Dm Bằng bao lăm Cm, bao lăm M, bao lăm Mm ?
Tôi hân hạnh gửi tới Ngài báo cáo về việc tấn công thành Hà Nội tại cửa Tây Nam &o buổi sáng ngày 20-11-1873.
Theo lệnh Ngài, chúng tôi khởi hành từ trại[13] &o lúc 5h30 sáng, quân bộ đội đi rất lặng lẽ, liên tục, không có gì gây cản trở cuộc hành quân của chúng tôi. Tới khu nhà bịt kín cạnh cổng Tây Nam, chúng tôi rẽ phải và nằm mai phục dọc theo tường thành (…). Chúng tôi đi vòng theo công sự và pháo binh dàn trận trước cổng thành. Khẩu đại bác 40ly dưới sự chỉ huy của ông Perrin được bố trí đã hạ cầu thứ hai. Nhóm do tôi chỉ huy đã vượt qua cầu thứ nhất (…) Viên hạ sĩ thủy quân Ardeven vượt qua cổng bằng phương pháp bám lấy các then ngang và các thanh gỗ để mở cổng. Chúng tôi cùng nhau xông lên phía trước và bắn &o &i tên bộ đội có trang bị giáo và súng trường. Công sự lập tức bị chiếm, binh bộ đội nấp sau một bờ tường nhỏ phía trong công sự, còn những người khác chiếm vũ khí. Khẩu đại bác đi theo chúng tôi bắn &o cổng lớn. Không có tiếng súng bắn trả. Tôi xông lên phía trước cùng với một &i người được bảo vệ bằng một phân đội sẵn sàng bắn &o bất cứ ai xuất hiện trên tường thành. &o lúc đó, chúng tôi nhận được một loạt đạn từ khẩu đại bác ở phía trái pháo đài. Phát pháo này không hiệu quả, chỉ làm cho một &i hòn đá rơi từ trên cánh cổng xuống. Sau &i cú đại bác, chúng tôi đã bắn thủng nhiều lỗ của cánh cổng. Hình như một người sẵn sàng bắn &o lỗ cổng, người bộ đội mang súng trường Corven đã chuyển sang phía bên kia cánh cổng và cổng thành đã được mở.
Ngay lập tức, chúng tôi chiếm lĩnh cổng thành (…)
Tôi cho ngừng bắn và ra hiệu đã thỏa thuận bằng một hiệu kèn”…[14]
Hình như đó, cánh quân thứ hai gồm 27 thủy bộ binh do chuẩn úy Trentinian chỉ huy và một đội thủy quân biệt phái 29 người do phó thuyền trưởng Esmez chỉ huy, cùng với 3 khẩu trọng pháo và 19 binh sĩ trừ bị của tàu Decrès, nhận nhiệm vụ tấn cổng &o thành ở cửa Đông-Nam.
Garnier dẫn đầu toán quân thứ hai tấn công mặt Đông-Nam. Quân Pháp dọn xong các chướng ngại vật, băng theo cầu gạch cố định, tiến sát cửa thành và chân tường thành. Thành Hà Nội theo mô tả của Công sứ Pháp ở Hà Nội những năm 1883-1884 là “một pháo đài hình vuông có xây công sự” với hai ụ súng công sự trên mỗi mặt thành. Thành có 5 cửa được bảo vệ bằng những lũy bán nguyệt xây kiên cố làm lối ra &o và có những hào sâu ngập nước bao bọc bốn mặt nhưng “do thói quen chểnh mảng, các quan đã để cho những ngôi nhà và tường bao của vườn tược dựng lên, lấn gần sát tường hào”[15]. Vũ khí bảo vệ thành của quân đội triều Nguyễn được một tác giả phương Tây viết gồm 40 khẩu thần công bằng gang và đồng thau theo kiểu cũ, gắn &o một hốc cố định không di chuyển được, lúc nào cũng chĩa thẳng ra phía trước mà không quay sang hai bên phải, trái được. Chính vì chính vì pháo thủ không những “không có chỗ trú ẩn khi bị tấn công xung kích” mà súng còn không thể “bắn ở tư thế chúc xuống” nên đã “trở thành vô dụng khi những toán quân tấn công trực tiếp ở mé chân thành”. bởi vì, trong trận chiến ở cửa Đông-Nam, khi lính Pháp băng theo cầu gạch cố định, tiến sát đến cửa thành và chân tường thành thì các khẩu thần công phía bên trên thành mới khai hỏa nhưng đạn vọt qua đầu toán lính Pháp và rơi xuống phía xa.
Lính Pháp dùng rìu bổ &o cổng thành nhưng không được vì cổng bằng gỗ lim, bên phía trong có khóa nên Garnier đã cử Esmez đưa đại bác lên giữa cầu gạch cách cổng thành &i mét bắn trực tiếp, phá thủng một khoảng trống lớn và dùng súng lục bắn vỡ khóa chốt. Cổng thành bị phá vỡ, toán quân của Garnier tràn &o thành mà chỉ bắt gặp những sức kháng cự yếu ớt không gây thiệt hại nào đáng kể. Đích thân khâm sai Nguyễn Tri Phương đứng trên tháp canh để đốc thúc binh sĩ chống trả đã bị bắn trọng thương ở bụng[16] nhưng chỉ sau một giờ giao chiến, quan binh triều đình tan rã, thành Hà Nội bị quân Pháp chiếm.
Ngay buổi chiều cùng ngày 20-11-1873, Garnier cử Coquerie đem quân tiến đánh phủ lỵ Hoà Đức đặt tại làng Dịch Vọng[17], khống chế con đường giao thông huyết mạch từ Sơn Tây về Hà Nội. Chi tiết của sự kiện này cũng được phản ánh trong công bố của Coquerie gửi Garnier:
“… Theo lệnh Ngài, chúng tôi mở màn hành quân từ 3h30 do một người An-nam dẫn đường; &o lúc 5h chúng tôi ở cách đồn lũy 400m. Tôi để lại đằng sau một khẩu đại bác 40ly do ông Perrin chỉ huy, với lệnh nổ súng &o cửa Đông ngay khi nghe thấy tiếng súng trường. Số quân còn lại của đại đội tiếp tục tiến lên phía trước.
Khi thấy cửa Nam có &i phát súng trường bắn &o những tên lính bước ra khỏi thành, khẩu đại bác của ông Perrin đã khai hỏa &o cửa Đông và phá tan khẩu thần công của địch ở đó. Khi không còn thấy một tên lính nào đi ra nữa, tôi cho ngừng bắn và tiến &o trong thành; cả 3 cổng thành đều bị chiếm giữ ngay lập tức. Khẩu đại bác 40ly đã nạp đạn được để lại dưới cửa Nam, ngay chỗ lên cầu.
Sau khi đi xem xét các bờ tường thành được vũ trang bằng 9 khẩu pháo các cỡ, tôi quay trở lại ngôi nhà của quan phủ. Ở đây tất cả đều chỉ rõ một sự ra đi vội &ng và vừa xảy ra xong, chỉ cách khoảng 15 phút. Chúng tôi đã tìm thấy con dấu của viên tri phủ. Vũ khí tịch thu được để ở sân của khu vực bị quân Pháp chiếm. Các cuộc tìm kiếm cuối cùng giúp phát hiện ra khoảng 40 quan tiền và một kho chứa từ 500 đến 300 kg gạo.
Những công trình còn dang dở ở đây cho biết, người ta đang củng cố đồn binh cho một sự phòng thủ sắp tới”…[18]
Cuối thư, Coquerie cho biết quân Pháp rời Phủ Hoài, trở về Hà Nội lúc 7h sáng ngày 23-11-1873.
Các sự kiện trên cho thấy, vì mất tinh thần chiến đấu do biết tin tức về việc Pháp chiếm thành Hà Nội nên quan quân ở phủ Hoài Đức đã để Pháp đánh chiếm phủ lỵ một cách dễ dàng. Kể từ ngày 20-11-1873 định mệnh, sự kiện thành Hà Nội bị tấn công lần I đã bắt đầu những trang sử bi quan xen lẫn khí phách hào hùng của thành phố Hà Nội thời cận đại.
Tài liệu bài viết liên quan:
Xem Thêm : Phân tích bức họa đồ phố huyện lúc chiều tàn siêu hay (18 Mẫu)
1. Tài liệu lưu trữ.
– TTLTQG I, Fonds des Amiraux et des Gouverneurs.
– TTLTQG I, Fonds de la Direction des Archives et des Bibliothèques de l’Indochine (DABI).
2. Sách
– Bonnal R., Au Tonkin: Notes et souvenirs 1872-1881-1886, Édition de la Revue Indochinoise, Hanoi 1925.
– Devillers P., Người Pháp và người An-nam: bạn hay thù? Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2006.
– Masson A., Hanoï pendant la période héroïque (1873-1888), Paris, 1929.
– Officiers de l’Etat Major, Histoire militaire de l’Indochine des débuts à nos jours (janvier 1922). IDEO, Hanoï, 1922.
– Romanet du Caillaud, Histoire de l’intervention française au Tonkin (1872-1874), Paris 1880.
– Taboulet G., La geste française en Indochine, Tome II, Paris, 1956.
– Vial P., Nos premières années au Tonkin, Challamel, Paris 1889.
– Nguyễn Văn Uẩn, Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, tập 1, Nxb Hà Nội, 2010.
– Phan Huy Lê (cb), Lịch sử Thăng Long Hà Nội, tập 2, Nxb Hà Nội, 2012.
Bài 2: Cuộc tấn công thành Hà Nội lần II năm 1882 – khúc dạo đầu
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp