Suy thoái kinh tế thế giới – nguyên nhân và ảnh hưởng đến Việt Nam

Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Suy thoái kinh tế thế giới – nguyên nhân và ảnh hưởng đến Việt Nam. Bài viết cac nuoc tu ban lai anh huong den viet nam tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.

Khắp nơi trên thế giới, người ta đang bàn về tình trạng kinh tế toàn cầu liên quan thiết thân đến “miếng cơm, manh áo” của mọi người bây giờ. Đó là suy thoái hay khủng hoảng kinh tế (KHKT), chỉ là khủng hoảng tài chính tiền tệ hay KHKT? Tại sao điểm xuất phát của sự bùng nổ tồi tệ hơn lại ở nước Mỹ, tại sao mở đầu sự đổ vỡ từ ngành bank, tại sao lại ảnh hưởng ảnh hưởng ảnh hưởng ảnh hưởng đến cả thế giới, v.v. Và, điều quan trọng nhất đối với chúng ta là: Việt Nam có thể “bình chân như vại” hay cũng phải tìm kế sách đặc biệt để vượt qua khó khăn; hơn nữa, kế sách này có gì đặc thù Việt Nam? Đó là những câu hỏi thật hóc búa, trả lời không dễ dàng. ai ai cũng thấy cần được có thêm thời gian theo dõi sát sao để có lời giải đáp thoả đáng.

Bạn Đang Xem: Suy thoái kinh tế thế giới – nguyên nhân và ảnh hưởng đến Việt Nam

Chúng ta biết rằng, chủ nghĩa tư bản (CNTB) với tính cách một chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn chế độ phong kiến, đã ra đời sớm nhất ở Hà Lan từ thế kỷ XVI, rồi phát triển chóng mặt mẽ ở châu Âu &o thế kỷ XVIII, XIX. Ngay giữa lúc CNTB còn đang ở giai đoạn phồn thịnh, thì cuộc KHKT đầu tiên của nó đã xảy ra (năm 1825), từ đó đến cuối thế kỷ XX đã xảy ra gần 10 cuộc KHKT toàn thế giới tư bản chủ nghĩa (TBCN) (1857, 1873, 1900-1903, 1907, 1929-1933, 1957-1958, 1969-1970, 1973-1975, 1982, v.v.). Chưa cần đến sự phân tích lô-gíc, mà chỉ từ thực tiễn phức tạp của những cuộc KHKT thế giới này cũng đã cho thấy mâu thuẫn căn bản của xã hội tư bản và địa vị lịch sử của CNTB.

Cuộc KHKT 2008 mang tính đặc thù, không thể giải quyết được mâu thuẫn nội tại của CNTB là mâu thuẫn giữa chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất với tính chất và trình độ xã hội hóa cao của nền sản xuất xã hội. Tính đặc thù của cuộc khủng hoảng ở chỗ: nó khởi phát từ Mỹ chứ không phải từ Anh, Pháp hay Đức như các cuộc khủng hoảng trước, không chỉ lan ra thế giới TBCN mà lan đến tất cả những nước khác. Ở Mỹ, khủng hoảng lại khởi phát từ ngành bank, tín dụng, từ buôn bán bất động sản chứ không phải từ ngành sản xuất công nghiệp… Tổng thống Mỹ G. Bush chối đây đẩy rằng, đây không phải là KHKT mà chỉ là suy thoái kinh tế. Các học giả tư sản, các chính phủ và chính khách các nước, khi thì nói khủng hoảng tài chính, khi lại nói KHKT. 1 cuộc KHKT từ khi mở đầu đến khi kết thúc thường trải qua 4 giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, hồi sinh, hưng thịnh. Căn cứ &o đặc điểm của các cuộc KHKT và thực tiễn đang diễn ra ở các nước trên thế giới, có thể nói, tình trạng suy thoái kinh tế thế giới bây giờ về thực chất là KHKT.

Mọi người đều có thể dễ dàng cảm nhận được tình trạng KHKT thế giới bây chừ, khi mà tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu trong nhiều năm là 4% – 5% thì năm 2008 chỉ còn 2,5%, tốc độ tăng trưởng của các nước đang phát triển từ 8% còn 4%; khi mà hai nền kinh tế lớn nhất, nhì thế giới là Mỹ và Nhật cùng nhiều nước G7 đang đứng trước nguy cơ có tốc độ tăng trưởng âm; khi mà giá cả nhiều hàng hóa đang hạ xuống bất thường, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất hoặc phá sản; khi mà nạn thất nghiệp gia tăng và lan tràn khắp các nước tư bản phát triển. Giá xăng dầu tụt xuống chưa từng thấy, giá các sản phẩm của luyện kim cũng hạ lạ thường, ảnh hưởng dây chuyền đến giá cả hàng loạt hàng hóa, là rất đặc trưng cho tình trạng suy thoái kinh tế hiện đại. Tình trạng đình đốn, đe dọa phá sản của các hãng ô tô ở các nước, như Mỹ, Canada, Nhật Bản, Italia, Đức…, tình trạng bi thương của các bank các nước G7, đều rất điển hình cho KHKT toàn cầu 2008. Người ta đang dự báo năm 2009 có thể tăng trưởng GDP toàn thế giới chỉ từ 0,5% – 0,9%.

Xem Thêm  Kai Đinh là ai? Tiểu sử của ca sĩ Kai Đinh – Trixie cafe

CNTB dù ở đâu, ở thời điểm nào, thì giá trị thặng dư (vẻ ngoài biểu thị bên bên ngoài là lợi nhuận) cũng vẫn là động cơ và mục đích. Nước Mỹ vẫn tự hào về “CNTB nhân dân” để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất thừa với sức thanh toán có hạn, thì cũng không thể che giấu được mục đích và động cơ đó. Ở Mỹ có hàng trăm bank. Các tổ chức tín dụng, bank Mỹ cho dân vay rất nhiều tiền với những điều kiện vô cùng dễ dàng, lãi suất thấp. Dân dùng tiền vay để mua cổ phần, cổ phiếu, mua sắm tòa nhà, ô tô và nhiều đồ dùng, phương tiện khác. Đặc biệt, kinh doanh thương mại Thương mại bất động sản rất phát triển. Trên 500 nhà chọc trời với hàng triệu căn hộ mà người dân Mỹ có thể mua được nhờ &o tiền vay bank. Người ta có thể dùng nhà đất thế chấp để lại tiếp tục vay bank, Dường như nợ cũ chưa trả được. Các giấy tờ có giá được mua đi bán lại rất phổ biến trên thị trường, nghĩa là thị trường chứng khoán rất phát triển. Việc mua bán các chứng khoán ấy là mua bán tư bản giả, còn tư bản thật lại đang tồn tại và vận động trong sản xuất, trong vòng tuần hoàn chu chuyển của các quá trình tái sản xuất. Chính điều ấy đã che lấp sự thật về sản xuất thừa, quá sức thanh toán của xã hội, chứa đựng tiềm ẩn KHKT. Và, chỉ cần một mắt xích nào đó đến kỳ hạn mà không trả nợ được, thì cả dây chuyền tín dụng xã hội sẽ đổ vỡ. Các bank ở Mỹ là người chủ sở hữu nhiều nhà đất, nhưng trong tay lại thiếu tiền vốn lưu động. Từ cuối năm 2007, nhiều ngân hàng Mỹ đã không đòi được nợ, theo đó đã thiếu tiền để chi trả và cho vay. Các doanh nghiệp không vay được tiền để kinh doanh Thương mại Thương mại, người gửi thì đua nhau rút tiền, việc gửi tiền giảm sút bất thường do thiếu tin &o bản lĩnh thanh toán của ngân hàng. Từ đó, trong suốt năm 2008, các ngân hàng Mỹ lần lượt bắt bắt gặp khó khăn điêu đứng, có nguy cơ phá sản. Tình trạng trên dẫn đến hậu quả sản xuất đình đốn, dãn việc làm, hàng hóa ế ẩm, giá cả hạ xuống mà đời sống của nhân dân lao động vẫn lao đao. (Ngay cả Tập đoàn Báo chí Mỹ cũng có nguy cơ phải đóng cửa nhiều toà báo…). Từ khủng hoảng tài chính, tín dụng dẫn đến khủng hoảng các lĩnh vực khác, như thế cũng rất lô-gíc, vì ngân hàng là trung ương thần kinh của toàn bộ nền kinh tế.

Xem Thêm : Sơ đồ tư duy bài thơ Viếng lăng Bác dễ nhớ, ngắn gọn – VietJack.com

Từ KHKT Mỹ lan toả nhanh chóng đến toàn cầu, bởi vì, nước Mỹ có nền kinh tế lớn nhất trái đất, chiếm 30% GDP thế giới, có nhiều công ty xuyên quốc gia, có quan hệ xuất, nhập khẩu bát ngát rãi với hàng trăm nước, lại chi phối Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và nhiều tổ chức kinh tế thế giới. KHKT lần này không chỉ đóng khung trong phạm vi thế giới TBCN mà còn thúc đẩy đến tất cả các nước, trong đó, có cả các nước XHCN (do các nước này đã mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu với thị trường toàn thế giới). Tuy nhiên, đối với các nước XHCN cũng như hàng trăm nước đang phát triển khác thì mức độ khủng hoảng không gay gắt như các nước phương Tây, vì nhìn chung các nước này đang xây dựng, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân sau hàng trăm năm đói khổ dưới ách thực dân. Mặc dầu vậy, việc chống đỡ những ảnh hưởng của KHKT toàn cầu cũng không đơn giản, vì đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì đó là một thị trường thống nhất hữu cơ và vẫn chịu sự tác động nhiều của các nước phát triển, trước hết là Mỹ.

hiện giờ, các nhà nước tư bản đang ra sức giải cứu nền kinh tế, nhưng nhân dân lao động vẫn là người chịu hậu quả nặng nề nhất của KHKT. Bởi vì, chính phủ của các nước tư bản giải cứu các tập đoàn kinh tế lớn là chủ yếu, ít đon đả đến đời sống người lao động. Nhân dân lao động cho rằng có hai nước Mỹ: nước Mỹ của một số tập đoàn tư bản giàu có và nước Mỹ của 30 triệu người nghèo khổ; ở đó vốn nó đã chứa đựng mâu thuẫn xã hội, KHKT bây chừ càng làm tăng lên mâu thuẫn vốn có của nó. KHKT rồi đây có thể vượt qua, nhưng những vấn đề căn bản của xã hội tư bản vẫn còn đó; CNTB chưa bao giờ tự giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của nó, chừng nào chưa có được chuyển đổi mang tính cách mạng, nhảy vọt sang một bơ vơ tự xã hội mới. Sau cuộc KHKT thế giới kinh hoàng 1929 – 1933, từ thời điểm cách đó non thế kỷ (năm 1937) học thuyết Keynes ra đời; nó đã phân tích lợi hại của “bàn tay vô hình” (thị trường), cho rằng nhà nước phải quản lý, phải điều tiết thị trường, phải xây dựng kinh tế quốc doanh, phải quốc hữu hóa một số cơ sở kinh tế tư nhân, phải có an sinh nhà nước, v.v. Trải qua mấy chục năm, nhiều nước tư bản phát triển đã đi theo mô hình đó. Tuy nhiên, “bàn tay vô hình” vẫn liên quan ngoài ý muốn kiềm chế của các nhà nước dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất; khủng hoảng cục bộ và KHKT thế giới TBCN vẫn thường xảy ra. Người ta lại phải tìm kiếm một học thuyết mới. “Chủ nghĩa tự do mới” do Hayek đề xướng từ những năm 70 của thế kỷ trước, được Tổng thống Mỹ R.Reagan và Thủ tướng Anh M.Thatcher cổ vũ và thực hành nồng nhiệt, theo đó yêu cầu tư nhân hóa nền kinh tế, xoá bỏ vai trò can thiệp của nhà nước, phát triển thị trường tự do tuyệt đối, xoá bỏ phúc lợi nhà nước. Rút cuộc, trải qua mấy chục năm áp dụng học thuyết mới, ngày nay mọi người vẫn đang chứng kiến một cuộc KHKT toàn cầu. Đứng trước KHKT 2008, người ta lại quay lại áp dụng “can thiệp của nhà nước &o thị trường”, không để thị trường tự do tuyệt đối, thậm chí có thể phải quốc hữu hóa để cứu một số tập đoàn kinh tế tư nhân. Xem thế thì thấy: CNTB đang mắc phải vòng luẩn quẩn. Rõ ràng CNTB chỉ có thể tự sửa chữa cục bộ và tạm thời chứ không thể tự sửa chữa cơ bản được, chừng nào còn thượng tầng kiến trúc chính trị và chế độ kinh tế tư nhân TBCN thống trị. Chính bây giờ nhiều người ở phương Tây, trước hết trong giới trẻ, lại tìm nghiên cứu bộ Tư bản của C.Mác để giúp hiểu được tình trạng đang xảy ra và có lời đáp đúng đắn. Đây cũng là bài học kinh nghiệm đích đáng cho những kẻ dao động, hoài nghi ở phương Đông thường ngợi ca một chiều CNTB và hết lời đả kích, bới móc CNXH, chủ nghĩa Mác. Chính bộ Tư bản nói chung và Tập II của Quyển III bộ Tư bản nói riêng, sẽ giúp ích nhiều cho thế hệ bây chừ hiểu được các thứ đang xảy ra. Và, cũng dễ hiểu vì sao kết quả thăm dò dư luận của hãng Truyền hình BBC và của Trường đại học Cambridge (Anh) về các nhà tư tưởng lớn của thế kỷ XIX, thế kỷ XX thì C.Mác được xếp vị trí số một.

Xem Thêm  Vì sao chế độ cộng hòa ở Anh lại được thay thế bằng … – Hoatieu.vn

Nước ta không thể đứng ngoài, trái lại, cũng đang chịu sự ảnh hưởng rõ rệt của KHKT thế giới. Bởi lẽ, chúng ta đang hội nhập kinh tế quốc tế, đã tham gia WTO, có quan hệ với IMF, WB cùng nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, chúng ta thực hiện cơ chế thị trường, thị trường nước ta là một bộ phận hữu cơ của thị trường thế giới, v.v. Xuất khẩu của nước ta chiếm 50% GDP, trong đó thị trường Mỹ giữ vai trò quan trọng, thế mà Mỹ và các nước đang hạ thấp mức tiêu dùng, họ hạn chế nhập khẩu, thì chúng ta gặp khó khăn đột xuất không nhỏ. Xuất khẩu chiếm tỉ trọng lớn, Bên cạnh đó giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới đều hạ thì sẽ ăn hại lớn. Đặc biệt, dầu khí chiếm 30% GDP, nay giá hạ quá mức, sẽ thâm hụt nghiêm trọng nguồn thu ngân sách nhà nước. Đầu tư nước ngoài chiếm tỉ trọng đáng kể, tuy là thuận lợi lâu dài cho phát triển kinh tế nước ta, nhưng cũng tiềm ẩn những khó khăn trong cuộc KHKT thế giới bây giờ. Nhiều doanh nghiệp của chúng ta vốn dĩ đang gặp khó khăn, đình trệ, nay do tác động của KHKT thế giới lại càng có nguy cơ thu hẹp hoạt động, dẫn đến dãn việc làm, ảnh hưởng đến một bộ phận không nhỏ người lao động, kéo theo hệ lụy là tệ nạn xã hội gia tăng, đạo đức xuống cấp, lối sống tha hoá… làm tăng nguy cơ mất ổn định chính trị và chơ vơ tự, bình an xã hội. Tình hình đó nếu kéo dài sẽ dẫn đến việc huy động các nguồn lực cho thực hiện nhiệm vụ chính trị – xã hội và quốc phòng – an ninh có nhiều khó khăn và là môi trường không thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Để hạn chế thúc đẩy thụ động từ KHKT thế giới, điều cần thiết hiện thời đối với chúng ta là càng phải quyết tâm tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách về phát triển kinh tế mà các Đại hội Đảng đã đề ra; đặc biệt, thực hiện kiên quyết, đồng bộ các giải pháp của Chính phủ nhằm “Chủ động chặn lại suy giảm kinh tế, phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, kiên cố, đảm bảo phúc lợi phúc lợi xã hội”1. Trong đó, có mấy điều cần hết sức chú trọng:

Một là, Dường như hội nhập kinh tế quốc tế và tranh thủ nguồn lực phía bên phía bên ngoài, chúng ta phải có ý thức xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực là chính. Phải không ngừng mở bát ngát thị trường nội địa, một mặt, không bài ngoại; mặt khác, có ý thức tự tôn, tự trọng, người Việt dùng hàng Việt để khai thác được tiềm năng và lợi thế của nước nhà, vừa tăng xuất khẩu, vừa coi trọng phát triển tiêu dùng trong nước. Cần nhận thức sâu sắc rằng: nếu chỉ nhờ &o bên ngoài mà GDP tăng trưởng nhanh, thì sự tăng trưởng ấy khó bền lâu. Trái lại, từ sản xuất, tiết kiệm, tích lũy trong nước để đầu tư phát triển, thì dù nhỏ, chậm nhưng nền kinh tế ấy có cơ sở phát triển vững bền, chắc chắn. (Người ta gọi đó là “GDP chống béo phì”, tạo được “chất đề kháng” trong cơ thể). Trong thời kỳ KHKT, tư bản thừa (thừa tương đối) ở các nước tư bản phát triển thường tìm đến nơi lạc hậu, kém phát triển để đầu tư, vì thế chúng ta cần tính toán cẩn trọng, chọn lọc sao cho phù hợp với đường lối kinh tế của ta, tiết kiệm đất đai – loại vốn tư liệu sản xuất quý nhất – lại không ảnh hưởng xấu đến sản xuất và tiêu dùng nội địa. Đặc biệt, trong lúc khôi phục, các tập đoàn tư bản xúc tiến đổi mới tư bản cố định, thải loại các thiết bị và công nghệ cũ, thì chúng ta cũng phải tỉnh táo để tránh biến thành bãi thải công nghiệp của các nước tư bản phát triển.

Xem Thêm  Ảnh Anime Buồn Chất Nhất ❤ Hình Anime Buồn Cực Chất

Hai là, thực sự và kiên quyết xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, không phải kinh tế thị trường tự do theo “chủ nghĩa tự do mới”. Bởi vì, thị trường tự do ấy đã phá sản trong cuộc KHKT hiện thời, chính nhà nước tư sản ở nhiều nước đang phải can thiệp &o thị trường, đang phải điều hành nền kinh tế, đang phải giải cứu các tập đoàn doanh nghiệp. Muốn có thị trường định hướng XHCN, trước hết phải nâng cao vai trò, chức năng, hiệu lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Nền kinh tế chịu sự chỉ huy, kế hoạch hóa tập trung quan liêu, coi nhẹ quan hệ thị trường trước kia đã là một sai lầm; nay chỉ sử dụng quan hệ thị trường, bỏ công tác kế hoạch hóa, thì lại là một sai lầm khác. Đương nhiên, công tác kế hoạch hóa đó phải được đổi mới, phù hợp với các quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Chúng ta phải xây dựng, củng cố Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, một Nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Được quản lý, điều hành bởi một nhà nước như thế, nhất định nền kinh tế phát triển lành mạnh. Điều quan trọng nữa là tiếp tục đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở bền chí củng cố, phát triển để doanh nghiệp nhà nước xứng đáng làm đội quân chủ lực cho Nhà nước quản lý, điều hành, hướng dẫn thị trường theo định hướng XHCN. Nhà nước phải quản lý, điều hành để phát huy tối đa mặt tích cực và hạn chế được nhiều nhất mặt thụ động của thị trường.

Xem Thêm : Giai đoạn 1945 – 1954 – Sở Tài chính Bạc Liêu

Bên cạnh đó hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta biết cách tổ chức và bền chí độc lập dân tộc gắn liền với CNXH thì hạn chế được liên quan của KHKT thế giới xuống mức thấp nhất, giữ vững sự ổn định về chính trị, xã hội; sự nghiệp “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” sẽ ngày càng trở thành hiện thực.

VŨ HỮU NGOẠN

Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh

____________

1- ĐCSVN – Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X. Nxb CTQG, H. 2008, tr. 175.

 

Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp

Recommended For You

About the Author: badmin

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *