Phát triển kinh tế kiên cố và những vấn đề đặt ra đối với đầu tư công

Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Phát triển kinh tế kiên cố và những vấn đề đặt ra đối với đầu tư công. Bài viết trien kinh te tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.

PGS.TS. Bùi Tất Thắng

Bạn Đang Xem: Phát triển kinh tế kiên cố và những vấn đề đặt ra đối với đầu tư công

Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Phát triển kinh tế bền lâu và kiên cố (hay tính bền lâu của phát triển kinh tế) là khái niệm nằm trong một khái niệm bát ngát hơn phát triển kiên cố lâu dài. Ngày nay, người ta cho rằng, phát triển kiên cố là khái niệm bao hàm sự phát triển bền vững về kinh tế, môi trường và xã hội; đôi khi trong một số trường hợp, người ta còn thêm phát triển kiên cố và kiên cố về mặt thể chế. nội dung bài viết tập trung làm rõ bản tính của vấn đề phát triển kinh tế, phát triển kinh tế kiên cố và kiên cố, cách thức đánh giá sự phát triển bền vững và kiên cố nền kinh tế; phân tích sâu một số lý thuyết phát triển kinh tế chủ yếu đã và đang ảnh hưởng đến việc thiết kế mô hình phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và xem xét một số vấn đề mới về tư duy phát trển bền lâu lâu dài nền kinh tế cũng như những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực đầu tư công ở Việt Nam bây chừ.

Từ khóa: Phát triển kinh tế, phát triển kinh tế bền vững, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế, đầu tư phát triển, đầu tư công.

1. Phát triển kinh tế bền lâu lâu dài là tư tưởng xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam

1.1. Phát triển kinh tế

(1) Tăng trưởng kinh tế là mức tăng lượng của cải (tài sản) trong 1 thời kỳ nhất định. Khái niệm tăng trưởng kinh tế này thích dụng với mọi quy mô: Nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp hay gia đình, cá nhân. Của cải có thể tính bằng hiện vật hoặc tiền (giá trị). Đối với một quốc gia, mức độ gia tăng của tổng sản phẩm quốc dân – GNP (hoặc quốc nội – GDP) tính theo đầu người, phản ánh mức độ tăng trưởng sản xuất trong một giai đoạn nhất định. Để có tăng trưởng, mức tăng sản lượng phải lớn hơn mức tăng dân số.

(2) Thay đổi căn bản cơ cấu của nền kinh tế, tỷ trọng của khu vực công nghiệp, dịch vụ trong GDP và trong tổng nguồn lao động xã hội tăng, Hình như tỷ trọng của nông nghiệp giảm. Đồng thời dân cư thành thị tăng, dân cư nông thôn giảm. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh mức độ thay đổi của phương thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những khu vực có năng suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn có tốc độ phát triển cao hơn và thay thế dần những khu vực sản xuất – buôn bán có năng suất lao động và giá trị gia tăng thấp.

(3) Người dân là chủ thể tham gia và thụ hưởng thành quả của phát triển, phản ánh mức độ công bằng, dân chủ và chất lượng cuộc sống của dân cư cùng với sự tham gia của họ &o quá trình phát triển. “Nhân tố then chốt của sự phát triển kinh tế là người dân của quốc gia đó phải là những cá nhân chủ yếu của quá trình thay đổi cơ cấu… Tham gia &o quá trình phát triển có nghĩa là tham gia &o việc hưởng thụ lợi ích của sự phát triển cũng như tạo ra các lợi ích đó”1.

ý niệm về sự phát triển kinh tế là kết quả của quá trình lâu dài mà sự vận động của thực tiễn, lý luận đã bổ sung và hoàn thiện. Ngay từ khi mới ra đời, khoa kinh tế chính trị học (cổ điển) đã nêu ra tư tưởng về phát triển như sự gia tăng mức độ giàu có cho toàn xã hội. Năm 1776, Adam Smith trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” đã viết: “Kinh tế học chính trị được xem như một ngành khoa học của một chính khách hay một nhà lập pháp nhằm: Cung cấp cho mọi người một khoản thu nhập, hoặc một mức sống đầy đủ; cung cấp cho Nhà nước, hoặc cho cộng đồng một khoản thu nhập đủ để thực hiện các dịch vụ công cộng. Kinh tế học chính trị có mục đích rõ ràng là làm giàu cho cả nhân dân và nhà vua đang trị vì đất nước”.

Theo ý niệm ở thời kỳ hiện đại, phát triển kinh tế là một phương tiện để đạt tới mục tiêu phát triển con người, gồm có: phúc lợi vật chất đầy đủ hơn, sức khoẻ tốt hơn, tuổi thọ mạnh hơn và được ăn học để nâng cao trí tuệ và đời sống tinh thần. Nói cách khác, sự phát triển kinh tế của một quốc gia ngày nay được ngụ ý không chỉ là sự gia tăng quy mô kinh tế, mà còn bao quát sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và đảm nói rằng mọi người đều được đồng đẳng về cơ hội để tham gia &o quá trình phát triển, do đó đều được hưởng thụ thành quả của phát triển.

1.2. Phát triển kinh tế bền vững lâu dài và kiên cố và kiên cố

(1) Tính kiên cố bên phía trong quá trình phát triển kinh tế

kiên cố là duy trì trạng thái phát triển liên tục trong 1 thời gian dài. Thực tế cho thấy, có những nền kinh tế có được sự bắt đầu khá ấn tượng (tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sự gia tăng của sản xuất công nghiệp cao, đời sống của dân cư được cải thiện, xã hội và chính trị ổn định…), nhưng thời gian duy trì không lâu. Sau 1 thời gian ngắn, nền kinh tế tỏ ra “hụt hơi”, “mất đà”, tốc độ tăng trưởng chậm, thậm chí chuyển sang suy thoái. Đó là tình trạng phát triển không hiệu quả và không bền vững và kiên cố và kiên cố.

Phát triển kinh tế kiên cố là phát triển kinh tế liên tục trong một thời gian dài, là nhân tố quyết định việc chuyển đổi trạng thái nền kinh tế từ thấp lên cao.

Tăng trưởng kinh tế kiên cố

Tại mỗi thời điểm nhất định, đối với mỗi nền kinh tế, công nghệ và nguồn lực đầu &o (đất đai, nguồn vốn, lao động tiềm năng) sẽ sản xuất ra một mức giới hạn tổng sản lượng đầu ra. Khi nói về tăng trưởng kinh tế, người ta vừa coi trọng chỉ số phần trăm tăng trưởng hằng năm của các nền kinh tế, vừa đon đả đến cách thức mà nền kinh tế đạt mức tăng trưởng. Ở một thời điểm nào đó, có những nền kinh tế chỉ tăng 5%/năm, nhưng xuất phát điểm từ mức đã toàn dụng các tiềm năng sản xuất sẵn có, nên 5 mức tăng trưởng này chủ yếu do mở mênh mông đường giới hạn tiềm năng sản xuất. Ngược lại, có nền kinh tế tăng trưởng tới 10%/năm, nhưng do xuất phát từ tình trạng chưa toàn dụng được các tiềm năng sản xuất sẵn có, nay có điều kiện tăng tốc chuyển sản lượng về đường giới hạn tiềm năng sản xuất, hoặc có thể kết hợp với mức thu hút được các tiềm năng sản xuất từ phía bên phía ngoài, nhưng vẫn có thể đánh giá không cao bằng trường hợp chỉ tăng trưởng 5%. Thậm chí, mức tăng là 10%, nhưng vẫn còn “dưới” tiềm năng sản xuất, nghĩa là vẫn có thể đạt mức tăng trưởng hơn 10%. Hình như, một mức tăng trưởng GDP nhanh phải có đủ ý nghĩa kinh tế – xã hội, tức là phải có sự cải sinh liên tục mức sống của dân cư. Do vậy, ngưỡng tối thiểu của mức tăng trưởng GDP được gọi là cao khi lớn hơn mức tăng dân số.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (mang tính bền lâu lâu dài)

Về mặt lý thuyết, đối với một nền kinh tế, trong một giai đoạn nào đó, có tăng trưởng, nhưng không nhất thiết phải có chuyển dịch (thay đổi) cơ cấu kinh tế và ngược lại; tức là có thể có tình huống có chuyển dịch (thay đổi) cơ cấu kinh tế mà không có tăng trưởng kinh tế2. Tuy nhiên giả định trên chỉ đúng về ngắn hạn và trong những điều kiện rất đặc thù nào đó chứ không thể đúng trong dài hạn. Trong quá trình phát triển, nhất là với những nền kinh tế khi đã bước &o thời kỳ công nghiệp hóa, quá trình tăng trưởng bao giờ cũng song hành với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hai quá trình này luôn bổ sung, hỗ trợ nhau. bản chất kinh tế của tiến trình này là sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ những lĩnh vực, những khâu có năng suất lao động thấp sang những lĩnh vực, những khâu có năng suất lao động cao hơn. Đặc biệt, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế không nhất thiết phải chuyển lao động ra khỏi ngành/lĩnh vực mà họ đang làm việc, mà chỉ là nâng cấp vị thế trong chuỗi giá trị ngay tại những ngành/lĩnh vực đó. Ví dụ, vẫn là nông nghiệp, nhưng canh tác bằng công nghệ mới; cũng là dịch vụ, nhưng áp dụng công nghệ thông tin hiện đại… Năng suất lao động cao hơn, hiệu suất sử dụng các nguồn đầu &o cao hơn… là thước đo đánh giá sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong khuôn khổ của phạm trù phát triển kinh tế bền vững.

Xem Thêm  Ý nghĩa và nguồn gốc của dãy số 690 452 – itrithuc

Sự đồng đẳng

Phát triển kinh tế tổng quát nội dung về mức độ đồng đẳng trong phân phối thu nhập, một trong những nội dung chủ yếu của đồng đẳng xã hội. Không hiếm những trường hợp ở một thời kỳ nào đó, nền kinh tế có mức tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng tình trạng đói nghèo tuyệt đối của một bộ phận dân cư lại không được cải tổ. Trong trường hợp như vậy, mức GDP bình quân đầu người đã ẩn mức chênh lệch thu nhập và đời sống giữa các bộ phận dân cư. Một sự bất đồng đẳng quá mức và đi kèm theo đó là tình trạng đói nghèo ngay khi kinh tế có tăng trưởng và cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển theo hướng tiến bộ, vẫn không được xem là trạng thái kinh tế phát triển. Luận điểm này không chỉ đơn thuần xuất phát từ lý do nhân đạo, mà chính là lý do mang bản chất kinh tế của sự phát triển vì: (i) Sự bất bình đẳng quá mức sẽ dẫn đến bất ổn xã hội – chính trị, trực tiếp ảnh hưởng không tốt tới môi trường kinh doanh, do đó cản trở đến sự phát triển kinh tế; (ii) Mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập diễn ra cùng lúc với tăng trưởng cao sẽ là cơ sở để nâng cao mức cầu, mở bao la thị trường và gia tăng tích lũy. Đây là những nhân tố không thể thiếu của quá trình mở bát ngát sản xuất.

Tính bền lâu và kiên cố của sự bình đẳng trong phân phối thu nhập không chỉ phụ thuộc &o phương thức phân phối các sản phẩm đã sản xuất ra, mà trước hết là mức độ bình đẳng về cơ hội tham gia &o quá trình phát triển và nhờ đó mà đạt được sự bình đẳng về mức hưởng thụ các thành quả phát triển. Như vậy, trên quan điểm về sự phát triển kinh tế, công bằng xã hội không phải là thành quả phát triển của xã hội được chia đồng đều cho mọi người, mà trước hết là sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận và tham gia của mọi những những các tầng lớp dân chúng &o quá trình phát triển và được hưởng thành quả tương ứng với sức lực, bản lĩnh và trí tuệ của họ. Vì thế, sự xa cách về mức thu nhập từ sự đóng góp khác nhau của mỗi người &o quá trình phát triển là khách quan và đó chính là công bằng xã hội, tình trạng đói nghèo được giảm thiểu và những người đói nghèo là đối tượng được xã hội ân cần nâng đỡ, ưu tiên trong việc tiếp cận những cơ hội để thoát ra khỏi tình trạng bần cùng (tăng trưởng cho tất cả mọi người). Về nguyên tắc, cần duy trì một khoảng cách thỏa đáng trong phân phối thu nhập, vừa đảm bảo duy trì được động lực (lợi ích) của sự tăng trưởng, vừa không để khoảng cách giàu nghèo trong xã hội chuyển hóa thành tình trạng bất ổn trong xã hội.

Tính vững bền lâu dài và kiên cố của phát triển kinh tế biểu thị ở tính vững bền và kiên cố của bản thân các thành tố cấu thành nên sự phát triển kinh tế, gồm: Sự bền lâu của tăng trưởng kinh tế; sự kiên cố của chuyển dịch cơ cấu kinh tế; sự vững bền lâu dài và kiên cố của mức độ bình đẳng trong việc thụ hưởng thành quả phát triển kinh tế. Tuy nhiên, tính kiên cố và kiên cố của phát triển kinh tế còn phụ thuộc một phần không nhỏ &o những điều kiện phía phía ngoài, những nhân tố thường xuyên ảnh hưởng chi phối lẫn nhau giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển xã hội và xây dựng thể chế.

(2) Tính kiên cố của các yếu tố bên ngoài quá trình phát triển kinh tế

Tính vững chắc và kiên cố của phát triển kinh tế phụ thuộc &o các yếu tố bên ngoài, nhưng có liên hệ và thường xuyên ảnh hưởng ảnh hưởng tới quá trình phát triển kinh tế, gồm có môi trường, xã hội và thể chế.

Môi trường sinh thái và phát triển kinh tế vững chắc

Môi trường vừa là không gian sinh tồn, chứa đựng sự phát triển kinh tế, vừa là các nguồn lực đầu &o của quá trình phát triển, nếu không được gìn giữ, bảo vệ, thì chắc chắn, sự phát triển kinh tế sẽ không thể bền lâu.

Tính kiên cố lâu dài lâu dài của phát triển xã hội và phát triển kinh tế

Xã hội ổn định và đồng thuận, có tiềm năng phát triển lớn và tâm lý phát triển tốt là những đặc điểm nổi trội miêu tả tính vững chắc và kiên cố và kiên cố của phát triển xã hội và có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế bền lâu và kiên cố. Ở trình độ phát triển nào của nền kinh tế cũng có những vấn đề xã hội nảy sinh cần giải quyết. Ở các giai đoạn mang tính bước ngoặt, có những biến cố lớn, thường hay xuất hiện những vấn đề xã hội mà nếu không giải quyết tốt, sẽ trở thành nhân tố gây cản trở mạnh đối với sự phát triển kinh tế.

Xem Thêm : Size 90 cho bé bao lăm kg? Ký hiệu số trong bảng size áo quần

Trong mô hình phát triển xã hội vững bền, tầng lớp trung lưu chiếm đông đảo trong xã hội. Ở đó, mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập diễn ra cùng lúc với tăng trưởng cao sẽ là cơ sở để nâng cao mức cầu, mở bát ngát rãi thị trường và gia tăng tích lũy. Nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại Adam Smith từng nói: “Không có xã hội nào có thể chắc chắn hưng thịnh và có hạnh phúc khi phần lớn người dân phải sống trong cảnh nghèo khó và đau khổ”. Còn tổ chức Oxfarm cho rằng: “Tình trạng nghèo khổ tràn lan không chỉ nói lên một nền kinh tế vô cùng kém hiệu lực mà còn là một sự vi phạm các quyền căn bản”3. Như vậy, từ các khía cạnh về kinh tế, xã hội và môi trường nêu trên, có thể bao hàm lại: “Chiến lược phát triển kiên cố là sự hội tụ và thăng hoa của mọi tư tưởng tốt đẹp được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Chiến lược này, ngoài nguyên tắc chủ đạo về tính vững chắc và kiên cố, còn bao gồm 3 nguyên tắc về tính công bằng; tính hài hòa là sự hài hòa giữa con người và giới tự nhiên, mặt khác là sự hài hòa (hòa mục) giữa người và người; tính cộng đồng – nhấn mạnh tính chỉnh thể của địa cầu và tính phụ thuộc lẫn nhau của loài người, muốn thực hiện mục tiêu chung của sự phát triển bền lâu, cần áp dụng biện pháp hành động liên hợp chung toàn cầu”4.

Thể chế và sự phát triển kinh tế vững bền

Sự phát triển vững chắc và kiên cố của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn &o thể chế và tính vững bền của thể chế. Đó là sự minh bạch, rõ ràng, có hiệu lực của hệ thống luật pháp, chính sách; sự đồng thuận của xã hội; sự ổn định về chính trị… Nói cách khác, đó là môi trường thể chế chính trị, xã hội hỗ trợ phát triển. Tính vững bền của thể chế không chỉ biểu thị ở những giai đoạn kinh tế đang ở chu kỳ hưng thịnh, mà đặc biệt biểu thị rõ khi kinh tế gặp gỡ khó khăn, thậm chí rơi &o khủng hoảng do những “cú sốc” khôn lường gây ra, nhưng nhờ có thể chế tốt, đã giúp cho nền kinh tế nhanh chóng khắc phục, vượt qua khó khăn với chi phí bé nhất.

Thực tế cho thấy, những nền kinh tế tăng trưởng nhanh và vững bền đều có chung đặc điểm căn bản là ổn định chính trị và ổn định kinh tế vĩ mô, tỷ lệ lạm phát thấp, quản lý nhà nước tốt, môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân. Ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô là môi trường thuận lợi cho tăng trưởng. Bất ổn kinh tế và chính trị làm xói mòn đầu tư và tăng trưởng, gây khó khăn cho các tầng lớp dân cư, đặc biệt là đối với người nghèo, những người ít có bản lĩnh để tự bảo vệ trước các bất định. Khi nền kinh tế bất ổn, các hoạt động sinh hoạt kinh tế sẽ được chuyển từ đầu tư sản xuất sang đầu cơ và điều này làm suy kiệt năng lực sản xuất của một quốc gia. Hình như, một nền chính trị bất ổn sẽ đi kèm với những chính sách bất định thường xuyên làm cho việc đầu tư – marketing lâu dài trở nên khó khăn, tăng rủi ro chính sách. Đối với nhà nước, chất lượng quản lý được đo lường qua những tiêu chí như tiếng nói và nghĩa vụ công bố giải trình (một số đo về sự tham gia chính trị), ổn định chính trị và không có bạo lực, hiệu lực chính phủ, chất lượng luật lệ quy định, quản lý bằng luật pháp và kiểm soát tham nhũng. Về môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân, để tăng trưởng kinh tế bền vững cần huy động được các thành phần kinh tế tiết kiệm, đầu tư, đào tạo và tạo ra nhiều cơ hội việc làm. Môi trường chính sách và quy định có ảnh hưởng đáng kể đến thành công hay thất bại của mọi thành viên trong xã hội. Quy định luật lệ là cấp thiết để thị trường vận hành thuận lợi, song hầu hết chính phủ các nước đang phát triển áp đặt chi phí cao 1 cách không cần thiết lên các doanh nghiệp thông qua quy định cấp phép, giấy phép và các quy định hạn chế khác. Khi các thủ tục quy định thành lập doanh nghiệp phức tạp, nhiều nhà kinh doanh Thương mại nản chí khởi nghiệp và nếu có khởi nghiệp thì họ có xu hướng hoạt động trên quy mô nhỏ và trong khu vực phi chính thức.

Xem Thêm  Tải bộ Font Full Tiếng việt đầy đủ chi tiết từ A-Z [ Updated 2022]

2. Những vấn đề đặt ra đối với đầu tư công để thực hiện phát triển kinh tế bền vững

Đầu tư công hay ăn xài chính phủ là các khoản chi của Chính phủ để cung ứng hàng hóa công (phát triển đường sá, trường học, ăn tiêu quốc phòng…). Luật Đầu tư công của Việt Nam năm 2014 quy định: “Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước &o các chương trình, dự án xây dựng cấu tạo hạ tầng kinh tế – xã hội và đầu tư &o các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế – xã hội”. Đầu tư công là một thành phần quan trọng của tổng cầu. Kinh tế học chính thống cho rằng, đầu tư công cộng thúc đẩy tổng cầu thông qua số tuấn kiệt chính, do vậy đầu tư công có vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Trên thực tế, đầu tư công có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều nền kinh tế, nhất là những nước đang phát triển, đặc biệt nhìn từ góc độ đảm bảo cơ sở cho phát triển bền vững. Ở Việt Nam, các số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ trọng vốn đầu tư công đang có xu hướng giảm, 47,1% (năm 2005) xuống 38,1% (năm 2010), sau đó tăng lên trong các năm 2012 – 2014 rồi lại giảm còn 38% (năm 2015) và dừng ở mức 37,6% (năm 2016). Đặc biệt, mức tăng đầu tư công hằng năm khá cao, giai đoạn 2005 – 2016 chỉ có 3 năm giảm nhẹ, còn lại đều tăng, có năm tăng tới 22,6% (năm 2009) và giá trị tuyệt đối tăng đều qua các năm, từ 161,6 nghìn tỷ đồng (năm 2005) lên 316,3 nghìn tỷ đồng (năm 2010) và 557,5 nghìn tỷ đồng (năm 2016).

Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư công, khoảng 50% vốn từ ngân sách nhà nước (NSNN), trên 30% là vốn vay, còn lại 20% là vốn của các doanh nghiệp nhà nước và nguồn vốn khác. Trong khu vực kinh tế nhà nước, vốn đầu tư từ trung ương có xu hướng giảm, Dường như từ ngân sách địa phương có xu hướng tăng. Bình quân thời kỳ 2005 – 2016, vốn của trung ương là 51,4%, địa phương là 48,6%, chênh lệch không đáng kể phản ánh sự phân cấp của cơ chế đầu tư công.

Vốn đầu tư công phần lớn được dành cho lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng, gồm cả hạ tầng cứng (đường giao thông, sân bay, bến cảng, cấp thoát nước, điện, viễn thông…) và hạ tầng mềm (y tế, giáo dục…). Tổng cộng các lĩnh vực này chiếm khoảng 53,6 % tổng đầu tư công năm 2016; trong đó vận tải, kho bãi chiếm tỷ trọng lớn nhất (21,3%), tiếp theo là điện, nước (14,4%).

(1) Hạ tầng giao thông: Một số công trình giao thông có quy mô lớn như các tuyến đường cao tốc, cảng hàng không quốc tế, cảng biển… được đầu tư, cải tổ, nâng cao năng lực kết nối giữa các vùng miền trong nước và giao thương quốc tế. Đến nay đã hoàn thành cải tổ, mở rộng Quốc lộ 1 từ Thanh Hóa đến Cần Thơ; nối thông tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên; đưa &o khai thác, sử dụng 746 km đường cao tốc; các công trình cảng hàng không (Nội Bài, sân bay Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Cần Thơ, Vinh, Phú Quốc (xây mới), Liên Khương, Pleiku, Thọ Xuân); đầu tư cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép – Thị Vải (Bà Rịa – Vũng Tàu) và nhiều cảng khác, đưa tổng công suất các cảng lên khoảng 470 triệu tấn năm 2015, khẩn trương đầu tư cảng Lạch Huyện (Hải Phòng), luồng cho tàu có trọng tải lớn &o sông Hậu… Hàng loạt các công trình hạ tầng giao thông trọng điểm khác có quy mô lớn đang được đẩy nhanh tiến độ thi công, nhất là ở các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn, ưu tiên bố trí vốn đầu tư để sớm hoàn thành dự án và đưa &o sử dụng, phát huy hiệu quả.

(2) Hạ tầng năng lượng: Đầu tư tăng thêm năng lực, cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển và đảm bảo an toàn năng lượng quốc gia. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành hoặc đang được xây dựng như Thủy điện Sơn La, Lai Châu, Nhiệt điện Duyên Hải, Vũng Áng I, Vĩnh Tân II; đưa điện lưới ra các đảo Phú Quốc, Lý Sơn, Cô Tô, Vân Đồn,.. tăng thêm 18,5 nghìn MW công suất nguồn; khoảng 7,6 nghìn km truyền tải các loại 500 kV, 220 kV và 37,4 nghìn MVA công suất các trạm biến áp.

(3) Hạ tầng thủy lợi: Tập trung đầu tư xây dựng và cải tổ theo hướng đa mục tiêu, nhiều dự án trọng điểm, quy mô lớn ở miền Trung, Tây Nguyên, trung du miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, các công trình được hoàn thành góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn.

(4) Hạ tầng đô thị: Ở các thành phố lớn được đầu tư nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật như các trục giao thông hướng tâm, các đường &nh đai, các nút giao tại các giao lộ lớn, tuyến tránh đô thị, đặc biệt ưu tiên các đường &nh đai, các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh… các công trình cấp nước, thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn cũng được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới.

(5) Hạ tầng các khu công nghiệp, khu kinh tế: Các địa phương tập trung đầu tư hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật, giải quyết tình trạng thiếu nhà ở và các hạ tầng xã hội thiết yếu (nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, dịch vụ khám chữa bệnh…) cho lao động trong các khu công nghiệp; hệ thống hạ tầng thương mại phát triển mạnh; hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển mạnh, đảm bảo hiện đại, rộng khắp, kết nối với quốc tế và từng bước hình thành siêu xa lộ thông tin.

(6) Hạ tầng giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch…: (i) Nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ngành giáo dục được thực hiện, kể cả tại các vùng dân tộc thiểu số và vùng khó khăn, đến nay một số tỉnh, thành phố đã quy hoạch các khu đô thị đại học và triển khai thực hiện như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nam, Hưng Yên…; (ii) Các công trình hạ tầng y tế đang thi công được đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành, sớm đưa &o hoạt động (5 bệnh viện hiện đại, kỹ thuật cao, ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực đang được đầu tư xây dựng, góp phần giảm tải các bệnh viện tuyến trung ương và bệnh viện tuyến cuối); (iii) Các thiết chế văn hóa, thể thao từ trung ương đến địa phương được nhiệt tình đầu tư và tăng cường, một số công trình văn hóa, thể thao quy mô lớn kiến trúc đẹp được đầu tư xây dựng (nhà văn hóa, sân vận động…).

(7) Các công trình kết cấu hạ tầng: Xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, bộ mặt nông thôn được đổi mới, đời sống nhân dân được nâng lên.

3. Một số hạn chế

(1) Cơ cấu đầu tư công chưa hợp lý

Trong cơ cấu đầu tư chung toàn xã hội, vốn đầu tư khu vực nhà nước chiếm tỷ lệ cao (trung bình giai đoạn 2011 – 2015 khoảng 39%) và chưa có xu hướng giảm. Trong một số ngành, vốn đầu tư nhà nước chiếm tỷ lệ quá lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội như giáo dục – đào tạo, y tế. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2015, tỷ trọng vốn đầu tư công trên tổng đầu tư cho lĩnh vực giáo dục – đào tạo là 78,7%; y tế 67,2%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí 74%; thông tin và truyền thông 63,5%; hoạt động chuyên môn và khoa học công nghệ 61,2%; nghệ thuật vui chơi và giải trí 71,7%. Cơ cấu đầu tư nội bộ ngành, lĩnh vực chưa hợp lý (chi nông nghiệp chủ yếu &o hệ thống thủy lợi, chi giao thông vận tải chủ yếu &o đường bộ…) và chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa chi đầu tư và chi thường xuyên (đảm bảo trang thiết bị, vận hành, duy tu, bảo dưỡng…).

Đầu tư vốn NSNN chủ yếu dựa &o nguồn bội chi ngân sách (vay nợ trong nước và nước ngoài) do phẳng lặng ngân sách gặp khó khăn. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển trên tổng chi NSNN giảm dần theo mức giảm bội chi NSNN, năm 2015 khoảng 17,4% (so với năm 2011 là 26,4%).

(2) Tình trạng lãng phí, thất thoát trong đầu tư công còn diễn biến phức tạp

Chi chưa đúng chế độ, chính sách, không bố trí đủ nguồn vốn, chất lượng công trình thấp trong đầu tư xây dựng vẫn chưa được giải quyết triệt để. Một số bộ, ngành trung ương và địa phương vẫn đề xuất khởi công mới các dự án Hình như chưa bằng phẳng đủ nguồn vốn để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản, hoặc mức vốn bố trí quá thấp, không đảm bảo hoàn thành dự án theo đúng thời gian và tiến độ đã phê duyệt. Nợ đọng xây dựng cơ bản chưa được xử lý triệt để và chủ yếu tập trung ở khối địa phương. Tình trạng nợ xây dựng cơ bản và ứng trước đầu tư lớn biểu thị kỷ luật đầu tư công chưa chặt chẽ, dẫn đến áp lực đối với điều hành và bằng vận NSNN. Tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, hiệu quả thấp chưa được khắc phục. Dự án dở dang nhiều, thời gian thi công kéo dài, chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư, gây lãng phí thất thoát nguồn lực tài chính nhà nước chưa được xử lý triệt để.

Xem Thêm  One Piece: Joyboy là ai? Joyboy có phải là Luffy không?

(3) Chất lượng thể chế quản lý đầu tư công còn hạn chế, hiệu quả đầu tư công chậm cải thiện

Nhiều vấn đề của thể chế quản lý đầu tư công còn yếu kém, chưa thực hiện theo thông lệ quốc tế. Thể chế pháp luật về đầu tư công hiện giờ chưa hoàn thiện, chưa khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo giữa các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư công. Một số quy định về đầu tư công không thống nhất, mâu thuẫn với các quy định tại các luật khác, các quy định của Quốc hội, Chính phủ…, hoặc quy định chưa phù hợp gây khó khăn trong việc thực hiện, làm ảnh hưởng tới tiến độ giải ngân của dự án.

Các dự án đầu tư theo bề ngoài PPP vừa qua được chú ý nhiều để huy động đầu tư của tư nhân &o phát triển kết cấu hạ tầng, nhưng mới chỉ tập trung &o lĩnh vực giao thông, năng lượng và chất lượng chuẩn bị dự án còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. Tỷ lệ thu hút vốn nước ngoài trong các dự án PPP còn hạn chế, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực điện. Việc quản lý các dự án BOT, BT… còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây ra nhiều hệ lụy cả về kinh tế lẫn xã hội.

4. Một số kiến nghị

(1) Đổi mới tư duy về đầu tư công dựa trên việc đáp ứng các nhu cầu của phát triển bền vững

Đầu tư công là một trong những công cụ của Nhà nước trong quản lý và phát triển xã hội, ngày nay cần được nhìn nhận dưới nhãn quan chung về phát triển bền vững của quốc gia. thế nên, hướng đầu tư công nhằm đảm bảo những yếu tố cơ bản, nền tảng cho sự phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với những ảnh hưởng xấu của chuyển đổi khí hậu.

Phương hướng đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật

Ưu tiên hỗ trợ thực hiện các dự án đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế – xã hội lớn, quan trọng, thiết yếu, có tính bao trùm trong các vùng, miền (giao thông, điện, nước, thủy lợi, thủy sản phục vụ đánh bắt xa bờ, hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với chuyển đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn, thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh…). 1 mặt, tập trung nguồn lực cho những dự án, những vùng kinh tế để nhanh chóng phát huy năng lực, tạo sức bật cho nền kinh tế. Mặt khác, NSNN phải ưu tiên hơn cho các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lũ và các vùng còn nhiều khó khăn.

Xem Thêm : 99 hình xăm mang ý nghĩa cố gắng cho những ai đang mất niềm tin

Cơ chế đầu tư

Trong điều kiện kinh tế thị trường và nguồn vốn từ ngân sách hạn hẹp, việc bố trí vốn phải không cho nguyên tắc ưu tiên sử dụng vốn NSNN để khai thác tối đa các nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác. Đồng thời, mở rộng các phương thức đầu tư, đặc biệt là đầu tư theo hiệ tượng đối tác công – tư (TPP). Thực hiện chủ trương xã hội hóa một cách rộng rãi đối với các dịch vụ công, nhất là trong các lĩnh vực y tế, chăm chút sức khỏe nhân dân, giáo dục – đào tạo, văn hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân ở nông thôn. Tổ chức thực hiện hiệu quả kế hoạch đầu tư công trung hạn gắn với kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch vay, trả nợ công.

(2) cải cách mạnh mẽ công tác quản lý đầu tư công ở tất cả những khâu của chu kỳ dự án

Quy hoạch: Nâng cao chất lượng công tác lập và quản lý quy hoạch phát triển làm căn cứ xây dựng các chương trình và kế hoạch đầu tư công trung hạn. Sớm ban hành Luật Quy hoạch theo hướng đổi mới cách thức lập và quản lý, khắc phục những bất cập trong công tác quy hoạch bây giờ.

Lựa chọn dự án: Thực hiện vẻ ngoài đấu thầu công khai. Việc xét thầu cần thông qua tổ chức hội đồng xét thầu độc lập và chuyên nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng khía cạnh công nghệ kỹ thuật, thời gian và tài chính. các cơ quan quản lý nhà nước trên cơ sở kết quả thẩm định của hội đồng này để quyết định lựa chọn người trúng thầu và xác định nội dung (các điều khoản) của hợp đồng.

Gigiết hại thực hiện dự án: Thực hiện công khai, minh bạch thông tin đối với đầu tư công. Tăng cường công tác gisát hại thực hiện kế hoạch đầu tư công và các chương trình, dự án đầu tư cụ thể. Thực hiện nghiêm chế độ văn bản giải trình tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công định kỳ hoặc đột xuất theo quy định. Việc gisát hại được thực hiện từ cơ quan quản lý, các nhà chuyên môn và công chúng.

Đánh giá dự án: Thực hiện bởi một tổ chức đánh giá độc lập và chuyên nghiệp, dựa trên những tiêu chí rõ ràng, khách quan, bao gồm các khía cạnh công nghệ, hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế đạt được so với hợp đồng và thuyết minh dự án. Kết quả đánh giá dự án cũng được công bố công khai với những đơn vị quản lý, các nhà thầu và cộng đồng dân cư.

Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt

1. Ban Chấp hành Trung ương, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2016.

3. Hướng tới một nền kinh tế phát triển bền vững, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2014.

4. Phan Văn Khải, Phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.

5. bank Thế giới, Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.

6. Phát triển con người – Từ ngụ ý đến chiến lược và động thái, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999.

7. Lương Xuân Quỳ, Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 2006.

8. Tái cơ cấu kinh tế để khôi phục tốc độ tăng trưởng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2014.

9. Bùi Tất Thắng, phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2010.

10. Trần Văn Thọ, Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam, NXB Tri thức, Hà Nội 2016.

11. Viện Thông tin khoa học xã hội – Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường, Hà Nội 1998.

Tiếng Anh

12. Amartya Sen, Phát triển là quyền tự do, NXB Thống kê, Hà Nội 2002.

13. Dani Rodrik, Tư duy mới về phát triển cho thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2 nghìn.

14. Daniel Yergin và Joseph Stanislaw, Những đỉnh cao chỉ huy – Cuộc chiến vì nền kinh tế thế giới, NXB Tri thức, 2006.

15. Kornai János, Hệ thống xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá – Thông tin, Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, Hà Nội 2002.

16. Robert Wade, Điều tiết thị trường: Lý thuyết kinh tế và vai trò của Chính phủ trong công nghiệp hóa ở Đông Á, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005.

1 Malcolm Gillis và các tác giả, Kinh tế học của sự phát triển, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Trung tâm Thông tin tư liệu 1990.

2 Vũ Tuấn Anh, Mấy ý kiến về cơ cấu ngành của nền kinh tế nước ta trong thời gian tới, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 4/1981.

3 Tăng trưởng với công bằng: Chương trình đàm luận xung đột về chủ đề xoá đói giảm nghèo tháng 9/1997, công bố của Oxfam International, tr. 16.

4 Shu Yongqing, Xã hội loài người đi về đâu? Hồi cố và bình luận về thế kỷ XX, Viện Thông tin khoa học xã hội, Tài liệu phục vụ nghiên cứu, Số TN 2002 – 76 & 77, Hà Nội 2002.

 

Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp

Recommended For You

About the Author: badmin

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *