Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Bệnh bụi phổi than – Thông tin hoạt động – Bộ Y tế. Bài viết benh bui phoi cao tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
- 8 Sang là ai? Hội thiện nguyện BDS bị Phương Hằng gọi tên?
- Kpop là gì? Giải thích các thuật ngữ fan chính hiệu cần phải biết
- 50+ Hình xăm hoa Bỉ Ngạn đẹp nhất – Thủ Thuật Phần Mềm
- TOP 8 dàn ý Thuyết minh về cây bút bi lớp 8, 9 – Download.vn
- One Piece: Tiết lộ lý do vì sao Kaido lại bị ám ảnh bởi Joy Boy
Bệnh bụi phổi than
Bạn Đang Xem: Bệnh bụi phổi than – Thông tin hoạt động – Bộ Y tế
>> ThS. Nguyễn Đình Trung, TS. Nguyễn Thị Toán
Bệnh bụi phổi -than là một bệnh trong nhóm bệnh bụi phổi nghề nghiệp do tiếp xúc với bụi khoáng và được biết đến từ những năm 1831 trong công nhân khai thác than với tên gọi“bệnh phổi đen ở công nhân than”. Ở nhiều nước, bệnh bụi phổi- than đã được ghi nhận là bệnh nghề nghiệp được đền bù.
ệnh bụi phổi-than (Anthracosis) là do người lao động khai thác than (khai thác hầm lò, khai thác mỏ lộ thiên hay nơi sàng, tuyển, chế biến than) hít phải bụi than trong thời gian dài có những diễn tả triệu chứng về hô hấp như ho; tức ngực; khạc đờm nhiều, thường là sau khi làm việc hoặc lúc nửa đêm, thậm chí cả khi đã nghỉ việc 3-4 ngày. Đờm thường có màu đenvà lỏng; khó thở, bắt đầu là khó thở khi gắng sức tiếp theo đến giai đoạn muộn của bệnh thì có khó thở thường xuyên và liên tục; Rối loạn thông khí phổi với hội chứng tắc nghẽn là chủ yếu và hội chứng hỗn hợp. Dường như người bị bệnh bụi phổi -than còn có nguy cơ bị tràn khí màng phổi, xơ hoá phổi và viêm phế quản mạn tính.
Bức Ảnh trên phim X quang phổi của bệnh bụi phổi – than là những nốt mờ tròn đều có kích thước lớn hơn 1mm thường tập trung ở phần trên và giữa phổi, có thể gặp gỡ hình ảnh các đám mờ lớn và hình ảnh khí phế thũng thường ở đáy phổi hay bao quanh đám mờ lớn.
Thành phần trong dịch rửa phổi chủ yếu là đại thực bào, có nhiều đại thực bào ăn bụi , các tế bào lympho và tìm thấy tinh thể than khi xét nghiệm đờm.
Ở Việt Nam, ngành khai thác than đang là một trong những ngành đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước với khoảng 90.000 lao động, trong đó có hơn 40.000 lao động trực tiếp. Tính đến năm 2007 có 554 công nhân được chẩn đân oán thù thù thù thù thù và giám định bận rộn bệnh bụi phổi – silic.
Từ bấy lâu ở nước ta, việc chẩn đoán bệnh bụi phổi cho công nhân khai thác than hoàn toàn là chẩn đoán bệnh bụi phổi – silic với tiêu chuẩn chẩn đoán là phải làm việc trong môi trường lao động có hàm lượng bụi silic trong bụi toàn phần là trên 5%. Như vậy là một số lượng lớn công nhân tiếp xúc trực tiếp với bụi than có nguy cơ mắc bệnh bụi phổi – than (hàm lượng bụi silic dưới 5%) sẽ không được chẩn đoán bệnh và sẽ không được đền bù do tác hại của bụi than.
Xuất phát từ các lý do trên, việc nghiên cứu và bổ sung bệnh bụi phổi – than là hết sức cấp thiết góp phần cho công tác bảo đảm sức khỏe cũng như bảo đảm quyền lợi cho người lao động khai thác than.
Xem Thêm : Hoàng yến chibi và hòa minzy nói về tin mâu … – Thibanglai.edu.vn
Phơi nhiễm HIV nghề nghiệp
Đến từ những
bất cẩn…
bác bỏ bỏ bỏ bỏ bỏ bỏ bỏ bỏ sĩ Nguyễn Tiến Lâm, Trưởng Khoa Virus – Ký sinh trùng (Viện Các bệnh Truyền nhiễm và Nhiệt đới quốc gia) cho biết, năm 2010 văn bản báo cáo của 46 tỉnh, thành trong toàn nước có 411 ca phơi nhiễm HIV. Tuy nhiên, cho đến nay ở nước ta nếu bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp vẫn chưa được hưởng chế độ đền bù.
Nguy cơ phơi nhiễm
Sau khi tiêm thuốc kháng sinh cho bệnh nhân Đỗ Quốc Vinh (bệnh nhân này đã được xác định nhiễm HIV), điều dưỡng Nguyễn Đăng Cường đã sơ ý để kim tiêm đâm xuyên qua da (mặc dù có đeo bít tất tay) &o đốt 1 ngón 4 tay trái của mình và gây chảy máu. Sau khi được xử lý lúc đầu, lập biên bảnthông báo tai nạn nghề nghiệp và xét nghiệm HIV sau phơi nhiễm (âm tính), điều dưỡng Cường đã được dùng thuốc điều trị dự phòng phơi nhiễm HIV.
Trường hợp của kỹ thuật viên Hoàng Thị Hải lại bị phơi nhiễm trong tình huống: khi đưa ống máu của bệnh nhân aids &o máy xét nghiệm sinh hóa, do bất cẩn làm giá đựng huyết thanh va &o thành máy, làm cho huyết thanh trong ống nghiệm bắn &o mặt và mắt. Sau khi tiến hành rửa mắt liên tục bằng nước muối sinh lý (natri clorid 0,9%), xét nghiệm HIV xác định âm tính, kỹ thuật viên Hải đã được điều trị dự phòng phơi nhiễm bằng lamivudin + zidovudin. Sau điều trị phơi nhiễm sức khỏe của kỹ thuật viên Hải hoàn toàn bình thường và xét nghiệm lại HIV cho kết quả âm tính.
Khác với hai trường hợp trên, ThS.BS Nguyễn Ngọc Hưng, trưởng khoa Nội, bệnh viện 09 bị phơi nhiễm mà không biết. Lúc ấy &o năm 1999, khi anh còn làm công tác điều trị cai nghiện cho người nghiện chích ma túy. Hình như đang tiêm thuốc cắt cơn cho bệnh nhân thì bệnh nhân lên cơn vật, gồng mình, đá chân, gạt tay bác sĩ làm cho xi lanh đang tiêm tĩnh mạch cho bệnh nhân quay ngược trở lại cắm &o tay của anh. Mãi 3 tháng sau anh mới biết bệnh nhân đó bị nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn aids. Bác sĩ Hưng chia sẻ: “khi biết bệnh nhân bị aids tôi nơm nớp lo sợ, liên tục đi xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm sau 6 tháng công bố âm tính mà tôivẫn không tin, cứ nghĩ biết đâu mình đang trong giai đoạn cửa sổ mà chưa bắt gặp ra. Sau đó 1-2 năm đi xét nghiệm khẳng định lại tôi mới hoàn toàn an tâm”…
Xử lý thế nào?
Bác sĩ Nguyễn Tiến Lâm, trưởng khoa Virus – Ký sinh trùng, Viện Các bệnh Truyền nhiễm và nhiệt đới quốc gia cho biết: Nguyên nhân gây phơi nhiễm HIV trong ngành y tế thường là do bất cẩn trong tiêm truyền đường tĩnh mạch hoặc bắp thịt; sơ ý trong lấy máu, làm xét nghiệm, làm các thủ thuật… chính do chính vì như vậy mà đối tượng dễ bị phơi nhiễm HIV trong ngành y tế thường là: Điều dưỡng trực tiếp chăm chút, điều trị bệnh nhân HIV/sida; Nhân viên trong kíp mổ; Nhân viên y tế làm việc tại các khoa cấp cứu và điều trị tích cực; Nhân viên khoa xét nghiệm giải phẫu bệnh hoặc bác sĩ nội khoa làm thủ thuật cho bệnh nhân sida (chọc dịch màng não, chọc dịch màng bụng, màng phổi…). Trong ngành cảnh sát, lực lượng truy bắt tội phạm cũng dễ bị phơi nhiễm với HIV.
Xem Thêm : khối lượng là gì? Đơn vị đo và công thức tính căn bản nhất của nó
Theo bác sĩ Lâm, khi xảy ra phơi nhiễm HIV người bị phơi nhiễm cần tiến hành theo qui trình sau:
Xử lý vết thương tại chỗ (để máu chảy tự nhiên, không nặn bóp tránh làm đụng dập tại chỗ vết thương. Xối vết thương dưới vòi nước sạch, rửa sạch bằng xà phòng. Nếu bị phơi nhiễm qua niêm mạc, nhỏ mắt liên tục bằng nước muỗi sinh lý hoặc xúc miệng nhiều lần.
Sau khi xử lý tại chỗ cần công bố cho người đảm đang, ghi rõ thời gian, cảnh ngộ xảy ra phơi nhiễm; Gặp bác sĩ chuyên khoa để đánh giá mức độ vết thương, xác định mức độ nguy cơ phơi nhiễm; Làm xét nghiệm HIV cho người bị phơi nhiễm. Kết quả âm tính sẽ điều trị bằng thuốc kháng virus dự phòng trong thời gian 4 tuần. Thử lại HIV cho người bị phơi nhiễm sau thời gian 3 và 6 tháng và cần chú ý khả năng bị phơi nhiễm cả với virus viêm gan B, C.
Trường hợp nguồn gây phơi nhiễm chưa biết được tình trạng HIV cần xét nghiệm mẫu máu, dịch cơ thể của người gây phơi nhiễm.
Bác sĩ Lâm cũng cho biết, cho đến nay ở nước ta chưa có trường hợp nào bị HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.
Cách phòng tránh
Được biết hiện giờ nhà nước đã có chế độ, chính sách cho người bị phơi nhiễm HIV nghề nghiệp hoặc bị nhiễm HIV do rủi ro nghề nghiệp.
Trong năm 2010, bệnh HIV/sida nghề nghiệp đã được xây dựng tiêu chuẩn chẩn đoán, giám định và đề xuất bổ sung &o danh mục bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm ở Việt Nam.
Thế nhưng phòng bệnh hơn chữa bệnh. Theo bác sĩ Lâm để phòng, tránh phơi nhiễm HIV nghề nghiệp cần sử dụng các phương tiện dự phòng phổ cập như mũ, áo, khẩu trang, căng thẳng tay, áo choàng, ủng, đeo kính hoặc tấm kính che mặt; Thực hiện đúng qui trình thao tác chuẩn trong quá trình làm thủ thuật ảnh hưởng tới vật sắc nhọn, máu và dịch cơ thể của bệnh nhân; Sắp xếp nơi làm các thủ thuật y tế gọn gàng và khoa học và thực hiện đúng các qui định về loại bỏ các vật sắc nhọn sau khi sử dụng.
Hình như, bác sĩ Trần Quốc Tuấn, giám đốc Bệnh viện 09 chia sẻ thêm: nên cố gắng hạn chế sử dụng thuốc tiêm truyền đối với bệnh nhân sida. Ví dụ, trong phác đồ điều trị lao có streptomycin (là thuốc tiêm) nhưng có thể thay thế thuốc này bằng loại thuốc uống khác. Khi chăm sóc bệnh nhân sida nên chọn những dụng cụ hỗ trợ giảm thiểu nguy cơ như dùng kim, bơm tiêm an ninh.
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp