Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Đò lèn (Nguyễn Duy) – Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 12. Bài viết do len tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
Đò lèn (Nguyễn Duy) – Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 12
Bạn Đang Xem: Đò lèn (Nguyễn Duy) – Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 12
I. Tác giả văn bản Đò lèn (Nguyễn Duy)
II. Nội dung văn bản Đò lèn (Nguyễn Duy)
III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy)
1. bố cục tổng quan tổng quan tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy)
– Phần 1 (5 khổ đầu): Người cháu nhớ lại Bức Ảnh tảo tần, lam lũ của bà.
– Phần 2 (còn lại): Sự thức tỉnh muộn màng của người cháu.
2. Nội dung chính tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy)
Nguyễn Duy đã viết về người bà ngoại của mình với tất cả lòng yêu thương và hàm ân sâu sắc. Đò Lèn của tác giả đã gợi lên những kí ức đẹp về thời ấu thơ và Bức Ảnh người bà tảo tần, bày tỏ tấm lòng yêu quý, kính trọng rất mực của người cháu đối với người bà đã mất. Là sự ân hận muộn màng của người cháu về thời thơ ấu vô tư, vô tâm mà không nghĩ đến cảm xúc của bà.
3. Tóm tắt tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy):
Tóm tắt tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy) (mẫu 1)
Bài thơ cho thấy cách nhìn về tuổi thơ của tác giả. Thời ấu thơ: câu cá , bắt chim sẻ ở &nh tai bức bức tượng phật, ăn trộm nhãn, đi chơi đền,chân đất đi đêm, níu váy bà đòi đi chợ. Nhà thơ nhớ và diễn đạt tình cảm sâu nặng đối với người bà. Bức Ảnh người bà: mò cua xúc tép ,gánh chè xanh những đêm lạnh ,bán trứng ga Lèn ngày bom Mỹ dội, năm đói củ dong riềng luộc sượng. Bà hiện lên đầy cơ cực, tần tảo mà yêu thương. bộc lộ tình ái thương, sự tôn kính, lòng hàm ơn và tri ân sâu sắc đối với bà. Cuối cùng ông cho thấy sự ân hận , bùi ngùi , xót đau muộn màng khi bà đã khuất xa.
Tóm tắt tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy) (mẫu 2)
Nguyễn Duy là một nhà thơ đã có nhiều đóng góp trong việc làm mới thể thơ truyền thống. Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng cũng vẫn rất là trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm, vì thế mà cứ ngấm &o lòng người đọc và trong cái đà ngấm ấy, có lúc lại khiến con người ta phải giật mình với suy nghĩ, nhiều bài thơ của ông đã được bạn đọc yêu thích như là Tre Việt nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn và Sông Thao… Ông đã được đánh giá rất cao trong những trang của thơ lục bát, một thể thơ có thể coi là dễ viết nhưng để viết được hay thì không hề dễ dàng một một chút nào. Nguyễn Duy được tặng Giải thưởng của Nhà nước về Vhọc tập nghệ thuật &o năm 2007. Thơ Nguyễn Duy đã hướng tới cái đẹp của đời sống giản dị quanh ta và đã phát giác ra được trong thế giới quen thuộc ấy còn có sự gắn kết của những giá trị vĩnh hằng. Những xúc cảm rất tâm thành ấy và những suy tư sâu sắc cũng được diễn tả bằng một hiệ tượng thơ vừa giàu tính cách dân gian lại vừa phảng phất phong vị thơ cổ điển ở phương Đông.
Tóm tắt tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy) (mẫu 3)
Qua dòng kí ức về tuổi thơ đã gắn với những kỉ niệm ở quê ngoại của Nguyễn Duy, bài thơ Đò Lèn đã gợi ra với mọi miền quê còn đói, nghèo khổ, cơ cực, đã từng chịu bao tàn phá đau thương bởi những bom đạn của kẻ thù. Từ tình cảm yêu thương sâu xắc đối với một người cụ bà, cụ thể như là bài thơ đã mở ra một hình bóng người lao động việt nam ở mọi miền quê : lam lũ, nghèo khó mà cần cù, nhân hậu, rất giàu tình cảm đối với cội nguồn, với văn hoá truyền thống… Bài thơ là dòng tình cảm yêu thương tha thiết và là những suy nghĩ cảm động , sâu lắng của nhà thơ đối với người bà, qua đó ta có thể hướng tới để ngợi ca vẻ đẹo của người lao động ở mọi miền quê Việt Nam. Có sự hoà quyện gữa tính cách dân gian và phong vị cổ điển. Bức Ảnh rất giản dị và gần gũi với cuộc sống bình thường, chất hóm hỉnh dân gian.
3. Phương thức diễn đạt:
– Biểu cảm + Tự sự + Miêu tả
4. Thể thơ tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy):
– Tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy) thuộc thể thơ: 8 chữ
5. Giá trị nội dung tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy)
– Đò Lèn gợi lên những kí ức đẹp về thời thơ ấu và Bức Ảnh người bà tảo tần, bày tỏ tấm lòng yêu quý, kính trọng rất mực của người cháu đối với người bà đã mất.
– Là sự ân hận muộn màng của người cháu về thời thơ ấu vô tư, vô tâm, sống bằng ảo tưởng đẹp mà không thấu hiểu cuộc sống cơ cực của bà.
6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy)
– Có sự hòa quyện giữa tính cách dân gian và phong vị cổ điển.
– Bức Ảnh giản dị và gần gũi với cuộc sống đời thường, chất hỏm hỉnh dân gian.
IV. Dàn ý tác phẩm Đò lèn (Nguyễn Duy)
I. Mở bài
– Giới thiệu &i nét về tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Duy là nhà thơ của những vẻ đẹp đời thường, những giá trị khiêm nhường mà bền lâu.
+ Bài thơ Đò lèn được sáng tác &o tháng 9 – 1938 khi Nguyễn Duy trở về quê ngoại thăm bà sau bao năm xa cách nhưng bà đã không còn.
II. Thân bài
* Luận điểm 1: Hình ảnh người bà tảo tần trong kí ức của người cháu
– Những kỉ niệm tuổi thơ của một chú bé nhà nghèo, vô tư, ham chơi, tinh nghịch:
+ Vui thích với những trò chơi trẻ thơ: bắt chim, trộm nhãn, theo bà đi chợ, câu cá.
+ Say mê thế giới thần tiên: chơi đền Cây Thị, xem lễ đền Sòng, ấn tượng mùi huệ trắng, khói trầm, điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.
+ Gợi nhớ những kỉ niệm xưa, bộc lộ sự trân trọng thời thơ ấu, yêu quý quê hương nguồn cội, tiếc nhớ người bà kính yêu.
+ Ngoài ra nó còn là cái nhìn tự vấn, tự soi chiếu lại sự vô tâm của bản thân khi chưa biết ân cần đến bà khi còn được ở bên bà.
– Bức Ảnh người bà qua kí ức của tác giả:
+ Bà âm thầm vượt qua mọi cơ cực, bán buôn ngược xuôi, chịu mọi hiểm nguy để nuôi dạy người cháu mồ côi và nghịch ngợm giữa cảnh chiến tranh khốc liệt.
+ Bà mò cua xúc tép, gánh chè xanh Ba Trại, thập thững những đêm hàn, bom Mĩ giội nhà bà tôi bay mất, bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.
=> Nét vẽ rất thực, rất đậm trong hình tượng về người bà của nhà thơ; và cũng là Bức Ảnh người bà rất gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam chúng ta.
+ Bà là 1 phần của tuổi thơ cháu, thân thương và gắn bó biết bao: níu váy bà đi chợ Bình Lâm,…
+ Bà hiền lành, tâm hồn bà đôn hậu, thánh thiện. Tiên, Phật, Thánh soi sáng lòng từ bi, bác bỏ ái mà bà hướng tới.
+ Sống trong tình thương ấp ủ của bà, đứa cháu mới thấu hiểu được tấm lòng, tâm hồn của bà.
=> Trước người bà giản dị, lam lũ mà tràn đầy ái tình thương con cháu, tràn đầy nghị lực cao cả, người cháu vừa rất mực yêu quý và trân trọng bà. Bà là hiện thân của đức hi sinh, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam, của các cái cò lặn lội trong cuộc đời.
* Luận điểm 2: Sự thức tỉnh muộn màng của người cháu
– Tình cảm của nhà thơ khi nghĩ về bà ngoại:
+ Thấu hiểu nỗi cơ cực, tần tảo, ái tình thương của bà.
+ Yêu thương, tôn kính, tri ân sâu sắc đối với bà.
+ Sự ân hận, bùi ngùi, xót đau muộn màng:
“Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn một nấm cỏ thôi “
+ Nỗi xúc động của đứa cháu khi đứng trước ngôi mộ bà ngoại:
Dòng sông xưa : sông Chu, sông Mã, sông Đò Lèn.
“Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi” : hàm nghĩa về cuộc đời bể dâu, về sự đổi thay của quê hương, xứ sở.
“Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi” : man mác buồn, triết lí về kiếp người hữu hạn trong dòng chảy vô cùng của thời gian và vũ trụ; nỗi hhối của người cháu vì năm xưa đã vô tâm, không thể chăm sóc bà.
* Đặc sắc nghệ thuật
– Sử dụng thủ pháp đối lập, phép so sánh đối chiếu
– Giọng điệu thành thực, thẳng thắn
– Có sự hòa quyện giữa tính cách dân gian và phong vị cổ điển.
– Hình ảnh giản dị, gần gũi với cuộc sống đời thường, chất hóm hỉnh dân gian.
III. Kết bài
– khái quát giá trị nội dung bài thơ
– Nêu cảm nhận của em về bài thơ.
V. Một số đề văn bài Đò lèn (Nguyễn Duy)
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Đèn Lò của Nguyễn Duy.
Cảm nhận về bài thơ Đèn Lò của Nguyễn Duy – mẫu 1
Tuổi thơ và quê hương luôn là những kỉ niệm cháy bỏng trong nỗi nhớ của nhà thơ Nguyễn Duy. Nỗi nhớ ấy ngày đêm da diết, vấn vương từng bước chân trong đường đời của nhà thơ người lính Nguyễn Duy. Thời thơ ấu, sớm mồ côi mẹ, Nguyễn Duy được bà ngoại hiền từ, nhân hậu nuôi nấng, thương yêu. Trong tâm hồn Nguyễn Duy, bà ngoại là Bức Ảnh gần gũi, thân thiết đến vô cùng. Đã có bao bài thơ Nguyễn Duy sáng tác khi đi xa người bà kính yêu đã trở thành những bài thơ đẹp nhất của hồn quê hương sâu lắng và mặn mà nỗi nhớ thương.
Có những bài thơ được Nguyễn Duy sáng tác để bộc lộ nỗi nhớ thương và hàm ân đối với người mẹ nơi quê xa, nhưng ở đó lại lâp lánh vẻ đẹp của Hình ảnh người bà cao quý, tảo tần. Đối với Nguyễn Duy, bà là mẹ, là người đã cho cháu mình lòng yêu thương và cả sự hi sinh vô bến bờ. Bài thơ Đò Lèn đã trở thành một trong những bài thơ ngập tràn tình ái thương đằm thắm như thế.
Xem Thêm : Bài thuyết minh về Vịnh Hạ Long (Di sản thiên nhiên thế giới)
Có thể nói: Đò Lèn là một bài thơ hay, giản dị và dễ hiểu. Một bài thơ được khơi nguồn từ tình ái quê hương và lòng biết ơn sâu sắc với người bà nặng công nuôi nấng, vỗ về thương yêu như bài Đò Lèn, thực sự đã đem đến cho người đọc một tình cảm nhân bản sâu sắc. Đò Lèn với bao câu thơ xúc động đó đã gợi cho người đọc nhiều xúc cảm về những kỉ niệm tuổi thơ của Nguyễn Duy bên người bà thân thiết, giữa quê hương êm đềm một thời quá khứ.
Vì thế, các cái thương hiệu địa danh thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, quê hương của Nguyễn Duy đã được nhà thơ nhắc đến thật nhiều như bao tình trìu mến dành cho mỗi một nơi: nào là cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, Đồng Quan, Ba Trại… Tất cả hiện lên để gắn với kỉ niệm ấu thơ day dứt lòng người. Và tất cả đã lùi &o quá khứ, nhưng đó lại là một quá khứ đẹp đến vô cùng. Cái “thuở nhỏ của “tôi” được Nguyễn Duy nhớ kỹ đến từng cử chỉ của con trẻ nghịch ngợm: đi câu cá ở cống Na, níu váy bà vì ngơ ngác giữa chợ Bình Lâm: sợ lạc mất người bà thân thiết hay cái gì cũng lạ lẫm đối với chú bé sớm thiếu thốn tình thương vỗ về? Rồi cùng bạn nhỏ “tôi” leo lên “bắt chim sẻ ở &nh tai tượng Phật”. Rồi cả cái ưò “ăn trộm nhãn chùa Trần” cũng được “cái tôi” Nguyễn Duy nhớ đến trong kí ức long lanh giọt nước mắt bùi ngùi.
Rồi “đền Cây Thị”, “đền Sòng” với phảng phất “mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm” cũng trở thành kỉ niệm sâu nặng ân tình trong trái tim yêu thương của người con đi xa quê lâu lắm chưa trở về. Thế mà, những bước “chân đất đi đêm xem lễ”, “điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng” và cả sắc màu của đời sống tâm linh lại bỗng trở thành rõ nét, rõ hình trong nỗi nhớ của Nguyễn Duy. Nét và hình ấy làm xao xuyến tất cả các ai đã đi qua thời thơ bé đáng yêu, bây giờ nhớ lại chợt thấy lòng se thắt tiếc nhớ.
Nào đâu chỉ có tiếc nhớ mà thôi, vì còn có cả lời xót xa, ân hận cho một sự dại khờ. Bởi vì:
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.
Người bà của “tôi” vất vả, nhọc nhằn như thế đó. bước đi “thập thững” qua suốt những nơi ở quê “tôi” nơi Hà Trung, rồi đến cả những nơi thuộc giáp ranh Ninh Bình cũng có bước “bà đi”. Hình tượng người bà vì thế đã có sức ám ảnh, cuốn hút nhà thơ và cả những ai từng có một người bà, người mẹ, người chị lam lũ suốt bốn mùa như thế. Bà của “tôi” là Tiên, là Phật, là Thánh, Thần. Dù “tôi” có ngây thơ sống giữa hai bờ hư thực, dù “cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng” thì “bà tôi” vẫn cứ mãi là Bức Ảnh thánh thiện đến trong trẻo ở trong “tôi”. “Cái năm đói” trong quá khứ có ý nghĩa gì đâu! Vì với tôi, đứa cháu bé nhỏ hồi nào của bà, nay dù có lớn khôn thì Bức Ảnh trong veo ấy vẫn còn đó quyện lẫn mùi “thơm huệ trắng, hương trầm”. Bước chân vững &ng hấp ủ ấp ấp nay của Nguyễn Duy qua mọi nẻo đường cuộc sống luôn chập chờn êm đềm quá khứ thần tiên về “bà tôi”.
Rồi nhọc nhằn đâu đã hết đối vđi “bà” của “tôi”. Chiến tranh tàn khốc cơ cực càng nhiều không kể xiết:
Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.
Bà của “tôi” vẫn sừng sững một ngoan cường giữa cuộc đời trần trụi vẫn tảo tần, vẫn chịu đựng tất cả để tồn tại, để thách thức mọi khổ đau. “ga Lèn ” quê hương yêu dấu vẫn đậm bóng liêu xiêu, vẫn in “bước cao thấp” của “bà tôi”. Bà vẫn chờ đợi tin tức đứa cháu yêu thương của bà. Cháu sẽ về với bà. Bà ơi, dù nhà, đền Sòng, chùa chiền và cả Thánh, Phật có bay đi hết, nhưng vẫn còn đây một bà Tiên đức độ giữa cuộc đời của cháu phải không? Bà Tiên ấy đã tiếp thêm sức mạnh đến vô tận cho cuộc đời một Nguyễn Duy luôn vươn tới mãi. Dù đó là một Nguyễn Duy:
Khi tôi biết thương bà tôi đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi
Bài thơ Đò Lèn chấm dứt bằng nỗi nhớ, sự ân hận muộn màng của cháu là “tôi” dành cho “bà”. Nhưng tất cả lại là những câu thơ chan chứa yêu thương và sự ấm áp nhất. Bởi ai đã hiểu hết sự hi sinh của những người bà, người mẹ như Nguyễn Duy thì người đó chính là người trưởng thành nhất và người đó luôn có trái tim nhái ân, nồng ấm nhất giữa trần gian phàm tục này.
Cảm nhận về bài thơ Đèn Lò của Nguyễn Duy – mẫu 2
Cuộc sống có những điều được gọi là nỗi nhớ, cứ xa xăm vô hình; có những Hình ảnh được gọi là hoài niệm mãi miên man, dằng dặc; và có những tình cảm được gọi là yêu thương luôn ấm nồng sâu sắc mà thường đi xa rồi người ta mới biết cách gọi tên chúng. Ta gọi chúng như là hoài niệm,là nỗi nhớ , yêu thương …
Cuộc đời người ngắn ngủi như chiếc lá, thoáng chốc thôi cũng đủ để mầm non chuyển sắc &ng. Người ta lớn lên, bon chen nhau mà sống để rồi biết bao lần lại tìm về tuổi thơ trong những nỗi nhớ xa xăm như thế. Với Nguyễn Duy đó lại là cả một thế giới của “Đò Lèn” – nơi lắng kết những giá trị vĩnh hằng – bài thơ mà cái brand name thôi đã gợi lên giữa lòng người nhiều suy nghĩ. Những người đã biết sẽ thấy quen thuộc nhưng những người không biết lại dễ chần chừ: cái gì là “Đò Lèn”? Hai tiếng ấy vô tình trở thành một khái niệm khó hình dung Ngoài ra bản chất nó lại vô cùng giản dị . Nó không phải là con đò, là dòng sông, bến nước hay cái gì đó chợt nảy ra khi lần đầu nghe đến. Đò Lèn là tên một miền đất như bao miền đất khác, nơi đã tạo nên tuổi thơ, hình thành hoài niệm trong bao lớp người xứ Thanh Hóa:
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở &nh tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Tuổi thơ được tác giả gợi lên với Hình ảnh của bà, với những trò chơi thuở nhỏ. Ở đó có cậu nhóc nào ham chơi mải mê câu cá, có cô bé nào nũng nịu: níu váy bà ra chợ mua quà. Cái cống Na và chợ Bình Lâm hẳn đã là cả một thiên đường của nhà thơ. Ông viết nó giản dị và chân thật như vừa đem từ cuộc sống &o chứ không chỉ từ một nỗi nhớ thôi. Nào là đi bắt chim sẻ, rồi đi ăn trộm nhãn của chùa,… được lang thang trên đồng ruộng, trong những ngôi chùa, khu vườn rộn ràng tiếng chim kêu. Không gian mở ra mênh mang và minh mông thỏa mãn tính hiếu động, đam mê khám phá của tuổi nhỏ, đưa chúng hòa nhập &o thiên nhiên, đất trời. Được chơi đùa, được nghịch ngợm thoải mái mới thấy hết niềm thích thú vô tận. Đó thật sự là tuổi thơ đúng nghĩa, khác hẳn với không gian nhỏ bé bao bọc bởi 4 bức tường chật hẹp bây giờ. Ta có thể hình dung ra trước mắt là bức ảnh một cậu bé tinh nghịch, lấm lem nhưng mắt sáng ngời. Không có quần áo đẹp, không có búp bê, dị nhân , những tuổi thơ như thế hấp ôm nay chỉ còn phảng phất trong nỗi nhớ người trưởng thành, trong ánh mắt lạ lẫm háo hức của trẻ con khi xem phim, đọc truyện ngày trước – cái thời của ba, của ông mình. Đoạn thơ như một cuốn phim quay chậm miên man, dằng dặc trôi đi:
Thưở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Trở về tuổi thơ ta nhận ra niềm hạnh phúc ngây thơ, trong sáng với đôi chân nhỏ bé thoăn thoắt khắp nơi, ru mình trong làn hương và điệu hát. Bàn “chân đất” đã trở thành bức ảnh không thể nào quên đối với mỗi người, cái cảm giác được trực tiếp chạm chân &o đất mát lạnh đến vô cùng, nó ghi dấu hành trình những đêm lễ bóng gió. Và cũng như thế, mùi huệ trắng, làn khói trầm, điệu hát văn đã đi &o từ vô thức! Tất cả chúng góp phần hình thành tuổi thơ đầy hồn nhiên, tinh ngịch trong tâm hồn mỗi người đã đi qua tuổi thơ, nhiều khi phải xin “cho tôi một vé đi tuổi thơ”.
Từ ngày ấy đến bây giờ là cả một quá trình con người lớn lên, hình thành nhận thức. Ngày còn nhỏ vô tư, không lo nghĩ:
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập những đêm hàn
Bà hiện lên trong cuộc sống của cháu lặng lẽ, âm thầm… Cái đầu non nớt và trái tim nhỏ đâu biết thế nào là nỗi cơ cực, nhìn mọi việc rồi cũng sớm quên đi. Không trách được bởi lẽ trẻ con đâu thể sâu sắc như người lớn mà hoặc giả có sâu sắc thì tâm hồn đã chai sạn đi rôi đâu còn là trẻ con với nét ấu thơ- cái thơ dại được ấp ủ bằng mồ hôi và nước mắt bà. Yêu thương hùng vĩ giúp cho tâm hồn tránh những bão dông.
Ngày còn nhỏ, yêu bà là yêu những câu chuyện cổ tích lung linh huyền ảo:
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần
Bà thổi &o tâm hồn non nớt cái hồn dân tộc bao thế kỉ trong dân gian. Truyện bà kể lung linh sắc màu cổ tích, mang cháu đến với thế giới của những phép màu kì diệu: Cô Tấm chui ra từ quả thị, Lọ Lem sánh duyên cùng hoàng tử . Bà có mái tóc bội nghĩa phơ, có nụ cười hiền như bà tiên trong truyện kể. Bà dọa cháu rằng chằn tinh rất dữ, bảo cháu phải nghe lời,… Nhiều, và nhiều lắm… Chính những câu chuyện đã giúp cháu biết yêu điều thiện, ghét điều ác, có ước mơ và hy vọng. Thỉnh thoảng, tìm về tuổi thơ là tìm đến những điều như vậy, nghe lòng mình kể lại lời bà ấm áp. Tâm hồn sẽ được thanh lọc và trong sáng hơn. Cái ranh giới hư thực trong suốt như chính tuổi thơ con người vậy. Dễ tin, dễ nhớ và cũng dễ quên.
Lớn lên một chút cũng là lúc phải đối mặt với hiện thực, cái đói trở thành nỗi ám ảnh triền miên:
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm
Đọc câu thơ ta bỗng nhớ về khoảng thời gian:
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Nạn đói những năm 45 như một nỗi kinh hoàng rải khắp đất nước. Củ dong, củ riềng cũng thành bạn, sượng sùng nhưng đáng nhớ, đáng thương. Mùi huệ trắng hương trầm cũng phảng phất như cái thoáng trở về bảo mật an ninh… Những đứa trẻ ngây thơ mơ về một mùi hương đã lắng sâu &o đất, tâm hồn, thân thuộc và rất đỗi bình dị. Đói kém không làm mờ đục tấm lòng trong sáng của trẻ thơ mà ngược lại nó còn gợi nên những mơ ước, cảm tình thầm kín nhưng đáng yêu.
Còn lại gì giữa nỗi nhớ cái bình an ngày trước? Nó có là hoài niệm thương đau, chua xót?
Bom Mỹ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Quê hương ngày khốc liệt in sâu &o tiềm thức khi mà những Bức Ảnh sự vật thân thuộc bị hủy hoại. Bom đạn không chỉ phá nát đất quê hương mà còn xóa nhòa đi tuổi thơ tươi đẹp. Bên cạnh không gian thiên đường thuở nào là đổ nát, hoang tàn. Nhà bà, đền, chùa, tất cả tan biến đi dường như quá nhanh đối với những đứa trẻ chưa kịp lớn hoàn toàn. ” thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết ” lay dậy niềm xót xa, như khẽ chạm &o vết đau nhạy cảm. Cái boăn khoăn hết sức trẻ con lại là niềm đau trong lòng người hiểu chuyện như bà. Không còn quá ngây thơ, có lẽ lũ trẻ hôm nào đã hiểu được cái nguyên cớ đằng sau nó. Nhưng như chưa tin &o chính mình nên mới thành nỗi băn khoăn chưa dám hỏi. Không còn nữa thánh, Phật mơ hồ, huyền diệu, thực tế dữ dội đối lập lại hoàn toàn. Còn bà vẫn vậy, lam lũ tháng ngày: “Bà tôi đi bán trứng ở ga lèn”
Khi lớn lên, con người nhận thức được đầy đủ hơn, làm thành một hành trình trở về man mác:
Tôi đi bộ đội, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi.
Tình cảm tập trung hướng về bà, con người lam lũ ngập tràn yêu thương. Bà nuôi lớn cháu để hấp ủ nay cháu trở về đây chững chạc, đàng hoàng. Cháu đã và đang là một người quân nhân bảo vệ mảnh đất này, bảo vệ những tuổi thơ như cháu ngày xưa. Chút gì là hối hận hận tiếc, yêu thương muộn màng. Đời người mấy ai mà vẹn tròn tất cả ! Con sông kia cũng bên lở bên bồi như người vậy. bảo rằng đã muộn nhưng chưa bao giờ là quá muộn cả. Yêu thương đâu cần biểu lộ rõ, cháu lớn lên thành người đã là cách thương bà tuyệt diệu nhất. lúc bấy giờ đứng trước mộ bà những vất vả hy sinh ngày xưa càng trở nên nhằm nhò. Bà đã đi mang theo tất cả những điều đẹp nhất của tuổi thơ cháu bình yên trong khó nhọc. Mất đi không phải là kết thúc. Bà không còn- cháu lớn lên cống hiến cho đất nước, đó là cách tiếp nối sự sống đầy ý nghĩa. Nấm cỏ của bà chôn chặt mọi niềm đau, giữ lại miền ký ức trong sáng cho con người tìm về lúc mỏi mệt.
Đất nước mình có biết bao người bà như thế! Bà là hiện thân cho phụ nữ Việt Nam hiền hậu, tảo tần hấp ủ ấp sớm. Những ngày đất nước chiến tranh, bà thay cha mẹ nuôi nấng con cháu, giữ cho cháu trọn vẹn một tuổi thơ. Đâu đâu ta cũng nghe nhắc về bà như một tấm hình thiêng liêng nhất. Người bà đi &o trái tim mỗi người như một lẽ tự nhiên, là miền ký ức vĩnh hằng :
“Tiếng gà trưa
Mang bao lăm hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”
Bà, tuổi thơ và những Bức Ảnh thân thuộc bình dị trong cuộc sống tạo nên giá trị cao đẹp nhất. Đi tìm đâu cái xa xôi khi mà hạnh phúc luôn song hành trong cuộc đời mỗi người. Nó là ái tình thương vô điều kiện, là các tháng ngày vui chơi thỏa thích. Chúng như mảng màu rực rỡ chiếu sáng tâm hồn, hướng con người về chỗ cái đẹp, cái thiện căn: “Nhân chi sơ tính bổn thiện” .
Cùng với bà, quê hương Đò Lèn hiện lên sống động giữa tuổi thơ chan hòa. Nó hiện diện trong cái nghịch ngợm thiếu thời, trong từng giấc mơ trẻ thơ, là nơi con người vẫy vùng, ngụp lặn. Mảnh đất khi thanh bình, lúc đau đớn oằn mình vì đạn bom nhưng lúc nào cũng phảng phất hương huệ thơm ngần, cái thứ hương vị đã trở thành đặc trưng tồn tại giữa tiềm thức.Đò Lèn của cống Na, chùa Trần, con sông 2 bờ bồi lở , cái brand name mộc mạc mà chân nghĩa thiết tha. Đò Lèn – nơi đó có bà, có cháu, có tất cả hoài niệm yêu thương tồn tại vĩnh hằng cùng nỗi nhớ!
Đề bài: Phân tích Bức Ảnh người bà trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy.
Phân tích Tấm hình người bà trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy – mẫu 1
Tấm hình người bà là một đề tài chưa bao giờ cũ trong nền vhọc hành độngệt Nam. Nếu Bằng Việt có Bức Ảnh người bà hiện lên tòa nhà nhà bếp lửa ấp ưu nồng đượm, thì ở Nguyễn Duy ta lại nhìn thấy Tấm hình của người bà sớm hôm tảo tần với những mua sắm ngược xuôi vất vả. Đấy chính là Tấm hình người bà trong tác phẩm “Đò Lèn”.
khởi đầu bài thơ tác giả còn vẽ lên trước mắt người đọc hình dáng một cậu bé tinh nghịch với những thú chơi của trẻ nhỏ:
Xem Thêm : Giải Thích Câu Ca Dao Nhiễu Điều Phủ Lấy Giá … – Sách Hay 24H
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở &nh tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”
Cậu bé ấy chính là nhà thơ Nguyễn Duy, Hình ảnh nhà thơ hồi bé hiện lên thật nghộ nghĩnh khi bắt cá, khi níu áy bà đi chợ. Không những thế trong tâm tưởng của cậu bé ấy còn không biết đên sự uy nghiêm của nơi Phật tại vậy cho nên với dẫn đến những trò chơi mà không sợ bị đức Phật quở trách. Đó chính là hành vi bắt chim sẻ trên &nh tai Phật Tổ và ăn trộm nhãn chùa Trần. chính sự ngây thơ đã cho cậu bé Nguyễn Duy của chúng ta không biết sợ và qua đó ta thấy Nguyễn Duy có một tuổi thơ giống như những cậu bé thôn quê, nghịch ngợm thật đấy nhưng đối với trẻ con quê thì động thái vặt trộm nhãn chùa Trần không phải xấu xa như cái thương hiệu ăn trộm mà cơ bản đó chỉ là một trò nghịch ngợm của trẻ con làng quê.
Hình ảnh của cậu bé Duy tinh nghịch khi đi lễ phật với bà. Cậu hiếu động nghịch ngợm và cậu vẫn rất còn bé để hiểu rõ sự tôn nghiêm nơi cửa Phật:
“Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”
Đó là những kí ức đẹp của nhà thơ với người bà của mình, cái tuổi thơ ấy êm đềm hơn khi có bà bên cạnh. Bà đi đâu cũng mang theo nhà thơ theo, chính vì thế có thể nói rằng tuổi thơ của nhà thơ gắn chặt với hình ảnh người bà. Nếu nhà thơ Bằng Việt có tuổi thơ gắn liền với bà và những hình ảnh thân thương của bếp lửa thì Nguyễn Duy lại có những kỉ niệm thật đẹp bên bà và những lần cùng bà đi lễ phật đi chợ chơi. Đó là những khoảnh khắc vô cùng đáng nhớ tuổi cậu còn nhỏ quá, nhỏ đến mức cậu vẫn đi chân đất đi xem lễ Đền Sòng. Có thể thấy tuổi thơ không gắn chặt với những hình ảnh cánh đồng thơm mát, những cánh diều mơ ước được thả trên nền trời xanh kia mà đó chính là những khoảnh khắc nghịch ngợm của cậu bé ấy ở những lễ đền và chùa. Cậu nghịch ngợm trên không gian uy nghi ấy và nghịch trong chính những hương thơm của hương trầm. Và một điệu hát văn với hình dáng lảo đảo của cô đồng đã mang ghi dấu trong tâm trí non nớt của cậu bé ấy.
Và chính sự ngây thơ ấy đã làm cho cậu bé chưa hiểu được sự cơ cực vất vả của bà. Ngay đến cả sự uy nghi của cửa Phật cậu còn không biết huống chi những nỗi vất vả của bà. Như thế mới nói trẻ em tâm hồn chúng như những tờ giấy trắng vậy, sự trong sáng ngây thơ của chúng lại trở thành sự vô tâm với những người thân yêu của mình. Nhưng điều đó chỉ xét trong trường hợp khi sau này chính những đứa trẻ ấy ngẫm lại chứ không phải là trách chúng vì vốn dĩ như thế mới được gọi là một đứa trẻ:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
Tác giả nói “tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế” như một lời trần thuật nói về những gì mà bà đã phải trải qua nhưng tâm hồn của nhà thơ lúc đó không thể hiểu được vất vả cơ cực là gì. Tâm hồn ấy chỉ dành cho những thú vui những trò chơi mà thôi. Bà không những phải mò cua bắt tép mà bà còn phải gánh chè xanh đi bán nữa. Có thể nói ở cái tuổi của bà mà lại phải vất vả cơ cực như thế. Đến bây giờ nhà thơ nghĩ lại bỗng như nhận ra những gì thơ ơ của mình. Những địa danh kia được nêu tên thật cụ thể như chứng nhân công nhận cho những hi sinh vất vả của bà vì đứa cháu yêu. Bà không chỉ làm ngày mà còn làm đêm nữa, những đêm lạnh bà cũng đi Quán Cháo, Đồng Giao. Có thể nói hai chữ “thập thững” đã lột tả tất cả những sự khó khăn và nguy hiểm đối với tuổi tác cũng như sự già yếu của bà. Thế nhưng ngày nào cũng như ngày nào bà làm công việc ấy để vì đứa cháu yêu.
Tuổi thơ của Nguyễn Duy còn phải trải qua những năm tháng kháng chiến chống giặc ngoại xâm, chính cái tuổi thơ ấy đã ăn thua những gì là nghèo khó trong Nguyễn Duy. Hình ảnh củ rong giếng luộc sượng đã cho thấy sự bần cùng về khắp đất nước. Thế nhưng người bà tần tảo kia không chỉ là một người bà mà còn giống như một người cha, người mẹ vẫn ngày đêm cực khổ kiếm từng đồng một để nuôi cậu bé Nguyễn Duy. Chính vì thế mà nhà thơ không phân biệt được người bà của mình với nhưng hero siêu nhiên kia. Bà giống như tiên như phật vậy:
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”
Thế rồi không những cảnh đói mà tuổi thơ bên người bà kính yêu ấy của nhà thơ còn phải trải qua những năm tháng vô cùng ác liệt với bom đạn của chiến tranh:
“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”
Đó là những ngày tháng khó khăn trong cuộc đời tác giả và người bà của mình. Hình ảnh nhà bà bay cũng như những đến Sòng, chùa chiền bay, thánh với phật rủ nhau đi đâu hết đã lột tả hết sự gian ác khốc liệt của cuộc chiến tranh ấy. Bà lại phải đổi nghề khác đó chính là bán trứng ở ga Lèn. Những hình ảnh kia như nói lên được sự khủng khiếp của chiến tranh nó không chỉ phá mất nhà của hai bà cháu mà ngay cả chỗ linh thiêng như chùa chiền cũng bị bom đạn làm cho biến mất tàn trụi.
Và giờ đây khi người cháu ấy đã lớn khôn hiểu ra những nỗi vất vả cơ cực của bà thì đã quá muộn bà đã ra đi và đến bên thế giới bên kia. Nhưng sự ra đi của bà không làm cho bà mất đi trên cõi đời này vì bà luôn còn sống mai trong chính tâm tưởng tình cảm của người cháu thân yêu:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”
Dù cho tác giả đã đi lính nhưng thời gian thì cứ trôi dòng sông thì vẫn ngày đêm bên lở bên bồi, và bà ngoại thì cũng cứ già cho nên chính vì thế khi tác giả nhận ra những tình cảm và sự cơ cực của bà thì đã quá muộn. bây giờ bà chỉ còn một nấm cỏ khô mà thôi.
Kết lại bài thơ là một nỗi buồn, nỗi nhớ thương hoài cổ. Hình ảnh người bà tảo tần với những kinh doanh thương mại ngược xuôi, với những lo toan trong cuộc sống, với tình yêu thương vô bờ dành cho cháu sẽ vẫn mãi luôn in sâu trong tâm trí người đọc. Bà về với đất, “chỉ còn là một nấm cỏ thôi” nhưng hình bóng bà vẫn mãi còn đó, mãi dõi theo cháu trong suốt cả cuộc đời.
Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy – mẫu 2
Tình cảm gia đình luôn là một thứ tình cảm thiêng liêng nhất, vì chỉ có gia đình mới là người bên ta dù cho khó khăn hay sung sướng mà thôi. Có biết bao nhiêu thứ tình cảm đi qua đời một con người như tình bạn, tình yêu, tình bạn bè… nhưng duy nhất chỉ có tình cảm gia đình là bền lâu nhất. Trong tình cảm lớn ấy chúng ta không chỉ biết đến công cha nghĩa mẹ mà còn biết đến sự yêu thương chăm sóc của bà. Người bà đã biết bao nhiêu lần trở thành đề tài văn học tiêu biểu trong những bài thơ bài văn nói về bà ấy có thẻ nhắc đến hình tượng người bà trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy. Qua tác phẩm này ta thấy những vẻ đẹp của người bà hiện lên 1 cách rõ ràng và nó tiêu biểu cho hình tượng những người bà trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trước hết người bà còn hiện lên với vẻ đẹp của một người yêu thương cháu hết mực. bà tham gia những lễ đền lễ chúa chính vì thế mà tác giả Nguyễn Duy ngay từ bé đã quen với những nơi như chùa Trần, Phật Tổ:
Xem Thêm : Giải Thích Câu Ca Dao Nhiễu Điều Phủ Lấy Giá … – Sách Hay 24H
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở &nh tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Hay đó chính là tín ngưỡng tôn đạo Phật mà nhân dân ta. Qua những vần thơ kể về tuổi thơ của Nguyễn Duy ta thấy được hình ảnh người bà ấy có cái tâm thật tĩnh và hướng thiện. Vì chỉ có hướng thiện thì bà mới hay đi chùa như thế. Và cũng chính vì hay đi chùa chính vì như thế Nguyễn Duy mới có những trò chơi gắn liền với hình ảnh chùa chiền đến vậy. Lớn lên bên bà nên Nguyễn Duy cũng sớm quen cái mùi hương trầm. đó là nhưng hương thơm tạo nên không khí thiêng liêng kính cẩn của chùa phật.
Không những thế người bà ấy còn là một người rất thương yêu cháu mình, bà đi đâu thì nhà thơ cũng theo tới đó:
“Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”
Nhà thơ không chỉ quen với hương trầm huệ trắng mà còn quen cả những bóng cô đồng lảo đảo hát chầu văn. Và hình ảnh rất đồi giản dị mà gợi lên tất cả những gì của đơn sơ nghèo mà đời sống tâm hồn thì phong phú đó là hình ảnh tác giả đi chân đất đi chợ đền Sòng với bà.
Hình tượng người bà còn hiện lên thật hay qua những công việc của bà. đó chính là sự buồn bã và đức hi sinh cao cả của bà trong những năm tháng kháng chiến chống mỹ đầy ác liệt. Bà chọn cho mình công việc một ngày dài cả đêm. Đó không chỉ là một công việc mà đó là rất nhiều công việc. Qua những công việc đó ta thấy được sự cơ cực của người bà. Sáng ra bà mò cua xúc tép, rồi đi gánh chè xanh Ba Trại. Tối đến bà lại đi Quán Cháo, Đồng Giao. Đó chính là những nét đẹp hi sinh vất vả đẹp đẽ của bà:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”
Và chính vì thế mà trong mắt nhà thơ bà hiện lên không khác gì với những thánh thần kia cả. Bà đẹp cái vẻ đẹp hiền hậu, nhân hậu, lương thiện và giàu đức hi sinh giống như những ông Phật Tổ kia ban phước cho đời thì bà chính là ngươi ban phước mang niềm hạnh phúc đến cho cuộc đời của cháu.
Hình tượng người bà hiện lên với sự bền chí của những bà mẹ việt nam anh hùng:
“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”
Dù cho biết bao nhiêu bom đạn rơi xuống, nhà của bà mất, đời sống tâm linh của bà cũng bay tuốt nhưng mà vẫn không lùi bước. Bà vẫn kiên cường chống lại thứ vu khí hủy diệt kia bằng cách sống theo một nghề khác. Cuộc sống nghèo khổ và đau thương không làm cho bà mệt mỏi và ngã quỵ mà còn khiến cho bà kiên trì hơn. Bà đi bán trứng để tiếp tục cuộc sống của mình. và đến khi mất đi rồi bà vẫn còn ở tâm trí người cháu Nguyễn Duy cậu bé hồn nhiên hồi nào.
Có thể nói hình tượng người bà trong bài thơ Đò Lèn đại diện cho những vẻ đẹp của người mẹ anh hùng Việt Nam. Những người mẹ đó tuy đã già nhưng vẫn rất kiên cường chống lại bom đạn và sự tàn ác của kẻ thù. Bà không ngại khó khăn để mang đến 1 cuộc sống cho cháu, để những người cháu ấy lớn lên và cầm vững tay súng để bảo vệ chủ quyền cho đất nước cũng như để giữ yên nấm cỏ khô kia khỏi bom đạn chiến tranh.
đọc thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:
Sóng
Đàn ghi-ta của lor-ca (Thanh Thảo)
Bác ơi (Tố Hữu)
Tự do (P.Ê-luy-a)
Người lái đò sông Đà
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp