Thành Hà Nội bước &o giai đoạn bị chiếm đóng

Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Thành Hà Nội bước &o giai đoạn bị chiếm đóng. Bài viết ha noi nam 1873 tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.

Tài liệu lưu trữ thuộc phông Đô đốc và các Thống đốc đầu tiên của Nam Kỳ (1858-1887) và một số tư liệu ảnh hưởng được sử dụng trong 3 bài viết trước đã cho thấy, ngay từ năm 1867, sau khi đánh chiếm được Nam Kỳ lục tỉnh, cùng với việc cấu hình cài đặt hệ thống chính quyền cai trị ở Nam Kỳ, chính quyền Pháp ở Sài Gòn đã coi việc đánh chiếm Hà Nội và một số tỉnh Bắc Kỳ là “một vấn đề sinh tử cho thuộc địa Sài Gòn, vấn đề sống còn cho tương lai của sự thống trị của người Pháp ở Viễn Đông” bởi chúng nhìn thấy ở Bắc Kỳ một tiềm năng khai thác lớn, nhất là con đường thương mại qua sông Hồng. Các nguồn tài liệu và tư liệu này cũng đã phục dựng lại hai cuộc tấn công thành Hà Nội của thực dân Pháp &o năm 1873 và 1882.

Bạn Đang Xem: Thành Hà Nội bước &o giai đoạn bị chiếm đóng

Sau cuộc tấn công thành Hà Nội lần I, vì điều kiện chính trị ở Chính quốc chưa cho phép mở bát ngát chiến tranh ở Việt Nam và do tương quan lực lượng giữa ta và Pháp chưa có sự thay đổi lớn nên cả 2 phía Việt Nam và Pháp đều phải nhượng bộ về mặt chính trị. Kết quả là một văn bản ngoại giao đã được ký kết ngày 6-2-1874, đó là Công ước về việc Pháp thỏa thuận rút quân khỏi Hà Nội. Điều 2, 3 và 4 của Công ước quy định quân Pháp sẽ rút khỏi thành Hà Nội, phải trao trả tòa thành cho chính phủ An-nam “với tất cả tài sản và trang bị hiện có”. Và Dường như chờ đợi triều đình An-nam cùng Thống đốc Nam Kỳ ký kết một hiệp ước chính thức, chính phủ An-nam sẽ nhường “một khoảng đất trên kè sông để xây dựng chỗ ở cho vị Công sứ Pháp và cho binh bộ đội đội hộ vệ”, đó chính là khu nhượng địa mà diện tích được quy định trong điều khoản phụ kèm theo Công ước. Như vậy, tuy đồng ý rút quân khỏi Hà Nội và trao trả thành cho triều đình Huế nhưng trên thực tế, con sói thực dân đã thò được hai chân trước &o Hà Nội.

Khoảng cách giữa hai cuộc tấn công thành Hà Nội &o các ngày 20-11-1873 và 25-4-1882 là một khoảng thời gian kéo dài 8 năm 5 tháng với hơn 3.000 ngày. Thời gian đó đủ để con sói thực dân tìm cách thò nốt hai chân sau còn lại &o Hà Nội. Và, một khi con sói đã thò được cả 4 chân &o Hà Nội, chúng sẽ quyết không chịu quay ra. Điều này bộc lộ rõ trong lá thư của Henri Rivière gửi bộ trưởng Thuộc địa Pháp về cuộc tấn công thành Hà Nội lần II và một số sự kiện quan trọng diễn ra ở Hà Nội mà chúng tôi đã giới thiệu ở bài 3, trong đó có đoạn viết:

Xem Thêm  Giải thích câu Cây ngay không sợ chết đứng – Thủ thuật

“Ngày 13-5-1882.

Tàu “Parseval” đã tới bãi sông ở Huế ngày 7-5 và ngài Rheinart báo cáo với tôi những gì đã xảy ra. Triều đình An-nam đã rất xúc động, nhưng cảm xúc dữ dội này không kéo dài lâu. Ngài Rheinart, theo tối hậu thư của tôi gửi ông Tổng đốc, nghĩ rằng tôi không có ý định chiếm thành, về sau này đã để triều đình An-nam hiểu rằng tất cả đều có thể điều đình được bằng cách giao trả lại thành, thật ra là thành đã bị phá một phần, &o trong tay những quan chức cao cấp người An-nam, những người sẽ được gửi đến cho tôi. Những quan chức này đã lập tức lên đường cùng tàu “Parseval” và đã tới Hà Nội ngày 10-5. Hai quan chức chính mang chức danh phái viên thứ nhất và thứ hai của Vua, tạm thời chịu nghĩa vụ Tổng đốc và Quan phủ. Viên quan thứ nhất là Trần Đình Túc, nguyên Tổng đốc Hà Nội, là một cụ già được quý mến và hoà nhã; viên quan thứ hai rất thông minh và hồ hởi, dưới con mắt của chúng tôi[1].

Cuộc Bàn bạc đi đến vấn đề trao trả thành. Những viên quan này hy vọng chắc chắn rằng thành sẽ được trao trả cho họ với bản lĩnh được sửa chữa và vũ trang lại, đó là điều tôi không đồng ý. Trong cảnh ngộ hiện giờ, tôi nhất định theo ý của tôi[2], trừ một &i nhượng bộ mà tôi đã tuyên bố trong thư gửi Quan án”…[3]

Sau khi chiếm được thành Hà Nội, một đại đội bộ binh do đại uý Retrouvey chỉ huy đã đóng quân tại điện Kính thiên. Ý đồ chiếm giữ thành Hà Nội để làm nơi đóng quân của Henri Rivière bộc lộ rõ trong thư gửi Tổng đốc Hà Nội được viết &o ngày 11-7-1882, sau khi thành Hà Nội thất thủ gần 3 tháng. Bằng những lời hoa mỹ nhưng không che giấu thái độ hống hách đầy ngạo mạn của kẻ đi xâm lược nhằm bảo vệ cho biện pháp hành động chiếm giữ thành Hà Nội của mình, trong thư Rivière cho rằng “với tư cách là Tổng Chỉ huy, tôi phải ân cần không chỉ tới những việc sẽ xảy ra tức thời cạnh tôi, mà còn cả những khó khăn có thể tới với tôi từ các vùng lân cận” và đổ lỗi cho phía Việt Nam đã không giữ được lời cam kết về đảm bảo “sự yên tĩnh trong toàn tỉnh” mà đã để cho các sự kiện chống Pháp nổ ra ở một số nơi trên địa bàn Bắc Kỳ như TP Tỉnh Thành Phố Bắc Ninh, Sơn Tây và ngay cả ở Hà Nội… Toàn văn lá thư như sau:

“Hà Nội, ngày 11-7-1882.

Thưa Ngài Tổng đốc,

Ngài yêu cầu tôi trao trả lại cho Ngài Hành cung và nhắc tôi về những lời cam kết của tôi với Quan án trong lá thư ngày 19-4[4].

Trong lá thư đó tôi nói sẽ trả lại điện Kính Thiên khi bản thoả thuận được ký kết giữa hai chính phủ chúng ta, và ngay cả trước đó nếu có sự yên tĩnh trong toàn tỉnh.

Xem Thêm : Thiếu sót hay thiếu xót, từ nào đúng chính tả tiếng Việt? – Thủ thuật

Liệu Ngài có thể khẳng định được với tôi, thưa ngài Tổng đốc, rằng sự thoả thuận đã được thiết lập lại hoàn toàn giữa hai chính phủ chúng ta. Tôi biết rằng các cuộc Bàn bạc đang diễn ra ở Huế và tôi hy vọng rằng những cuộc trao đổi này sẽ sớm có lối thoát thuận lợi, nhưng tôi không dám khẳng định rằng chúng sẽ đạt được kết quả hoàn toàn.

Xem Thêm  Forecast Là Gì? Tìm Hiểu 3 Phương Pháp Dự đoán Chuẩn Xác

Tôi chỉ có thể khẳng định thêm rằng chơ vơ tự của vương triều trong tỉnh Hà Nội và các tỉnh lân cận sẽ trở lại như cũ, bởi vì tôi còn chưa hề gửi tàu chiến đến Bắc Ninh và tôi không biết liệu ngài Tổng đốc, người rõ ràng thù địch chúng tôi, đã tạm ngừng các công việc chống lại chúng tôi mà ông ta đã làm ở đây hay chưa.

Tôi chỉ có thể chắc chắn rằng các làng dọc sông Lô thuộc Tỉnh Bắc Ninh chỉ nhận được những lời khuyên xấu chống lại chúng tôi bởi vì chúng tôi không làm một điều gì hại đến dân chúng ở đây nhưng họ đã trốn chạy khi chúng tôi tới gần.

Tôi cũng không biết chắc cách bố trí của Sơn Tây là nơi đã có thể đang giam giữ ba người dân 1 làng của sông Lô, thủ phạm có quan hệ với chúng tôi[5].

Ngài sẽ nói với tôi rằng điều đó không xảy ra ở tỉnh Hà Nội, nơi các Ngài đã làm rất nhiều, tôi biết điều đó, để tái lập chơ vơ tự và yên tĩnh, nhưng Ngài có biết, thưa ngài Tổng đốc, rằng với một kinh nghiệm lâu dài về các vấn đề chính trị và chiến tranh để không hiểu rằng với tư cách là Tổng Chỉ huy, tôi phải đon đả không chỉ tới những việc sẽ xảy ra tức thời cạnh tôi, mà còn cả những khó khăn có thể tới với tôi từ các vùng lân cận.

Tôi tiếc rằng Ngài đã viết cho tôi như sau: điện Kính Thiên là một nơi thiêng liêng, là nơi người ta thờ trời và tôn kính Vua, đó không phải là nơi để cho binh bộ đội ở.

Ở Pháp, chúng tôi đối xử với binh bộ đội và những người bạn với một sự quý mến lớn hơn.

Chính Chúa Trời đã đem đến thắng lợi cho quân đội và chính binh bộ đội bảo vệ nhà Vua. Nơi ẩn náu nhất thời của binh lính không thể xúc phạm đến ngôi nhà của Chúa Trời và cung điện của một ông Vua.

Tóm lại, thưa ngài Tổng đốc, trong cảnh ngộ giờ đây, và vừa công nhận về nguyên tắc rằng điện Kính Thiên cũng như địa điểm theo lời hứa của tôi trong thư gửi Quan án, sau này phải được trao trả cho các ngài, tôi còn chưa thể ấn định thời điểm cho việc trao trả này được thực hiện.

Ngài sẽ rất muốn biết rõ về những điều có ảnh hưởng đến những lời hứa khác của tôi mà kết quả có thể có ngay lập tức, tôi hoàn toàn đảm bảo. Không một người lính nào của tôi rút ra khỏi khu vực chúng tôi đang chiếm giữ để đi đến những nơi mà các ngài đang đóng quân. Sự liên lạc duy nhất của binh lính với khu nhượng địa được lập bởi con đường đã vạch rõ và lá cờ của nước Nam luôn phấp phới trên toà thành, trên đỉnh cao của kỳ đài.

Cầu xin Ngài hài lòng.”[6]

Thế nhưng thực tế lại không diễn ra theo những lời hoa mỹ đó của Rivière mà lại diễn ra theo trình tự sắp xếp của kẻ xâm lược.

2 năm sau ngày thành Hà Nội thất thủ lần I, ngày 16-11-1875, Tư lệnh Chapolot đã mô tả thành Hà Nội như sau: “Thành Hà Nội có hình vuông, mỗi cạnh có ba thành liên tháp, hai pháo đài, và hai pháo đài một mặt. Các mặt thành ở chính giữa, ở các cạnh phía Bắc, Đông, Tây và ở cuối của cạnh phía Nam đều được bảo vệ bởi các lũy hình bán nguyệt”[7].

Xem Thêm  Biển số 85-F1 ở đâu? Chi tiết về biển số 85 F1 – Dịch biển số xe

Xem Thêm : Cosplay nghĩa là gì? Thú chơi công phu hay tốn thời gian? | Mọt Game

Cũng theo mô tả của Chapolot, trong thành được chia làm các khu:

Khu Hoàng cung: chính giữa là điện Kính Thiên xây hơi lệch về phía Tây để lấy hướng phong thuỷ. bên ngoài là tường cao vòng quanh hình chữ nhật, bề dài 350m, mênh mông 120m. bên phía trong chia làm hai phần: điện Kính Thiên xây trên một ngọn núi đất thấp, cột gỗ lim lớn người ôm không xuể, thềm điện cao 3 cấp, hai bên có rồng đá lượn, phía sau là Hành cung chỗ vua ngự mỗi khi ra Bắc. Điện Kính Thiên và Hành cung có tường cao xây ngăn và có hai cổng nhỏ thông với nhau. Từ điện Kính Thiên trước mặt đi thẳng ra Đoan Môn, hai bên đường là tường cao. Đoan Môn có ba cửa: cánh cửa chính ở giữa dành cho vua và hai cửa phụ dành cho các quan. Sau Hành cung là lầu Tĩnh Bắc, còn gọi là Hậu Lâu.

Phía trong thành là các trại lính, phía tây nam có Thần công.

Cột cờ bên ngoài Đoan Môn, xây năm Gia Long thứ 11 (1812), đốc công là Đặng Công Chất.

Như vậy, sau cuộc tấn công thành Hà Nội lần II, Pháp đã chiếm Hành cung và điện Kính Thiên để làm nơi đóng quân. Đây là biện pháp hành động đầu tiên trong quá trình chiếm đóng và phá hủy thành Hà Nội để phục vụ mục đích quân sự của quân đội Pháp. Tài liệu lưu trữ sẽ chứng minh quá trình đó &o bài tiếp theo.

Tài liệu bài viết liên quan:

1. Tài liệu lưu trữ.

– TTLTQG I, Fonds des Amiraux et des Gouverneurs.

2. Sách

– Masson A., Hanoï pendant la période héroïque (1873-1888), Paris, 1929.

– Nguyễn Văn Uẩn, Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, 2 tập, Nxb Hà Nội, 2010.

– Phan Huy Lê (Chủ biên), Lịch sử Thăng Long Hà Nội, tập 2, Nxb Hà Nội, 2012.

 

Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp

Recommended For You

About the Author: badmin

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *