Nợ công của Việt Nam có xu hướng giảm – Bộ Tài Chính

Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Nợ công của Việt Nam có xu hướng giảm – Bộ Tài Chính. Bài viết no cong cua viet nam tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.

Thời gian qua, công tác quản lý nợ công ở Việt Nam được thực hiện chặt chẽ và đã đáp ứng được các mục tiêu đề ra. Trong giai đoạn 2017 – 2021, nợ công của Việt Nam giảm mạnh, từ mức 61,4% GDP xuống còn 43,1% GDP và được dự báo ở mức tương đối ổn định trong năm 2022 – 2023. Để quản lý nợ công toàn diện và hiệu quả hơn trong thời gian tới, việc từng bước áp dụng các thông lệ tốt trong quản lý nợ công theo chuẩn mực quốc tế là cấp thiết.

Bạn Đang Xem: Nợ công của Việt Nam có xu hướng giảm – Bộ Tài Chính

Nợ công của Việt Nam có xu hướng giảm dần​

Tỉ lệ nợ công của Việt Nam trong những năm vừa mới đây có xu hướng giảm dần. Từ 61,4% GDP (năm 2017) xuống còn 58,3% GDP (năm 2018), 55,9% GDP năm 2020 và đến năm 2021 là 43,1%. Năm 2022, mức nợ công được dự tính tương đương với năm 2021, khoảng 43 – 44% GDP. Cùng với đó, nợ chính phủ, nợ chính phủ bảo hộ và nợ chính quyền địa phương cũng giảm dần. Cụ thể, nợ chính phủ cũng giảm từ 51,7% GDP năm 2017 xuống còn đến 39,1% GDP năm 2021. Nợ chính phủ bảo lãnh giảm từ 9,1% GDP năm 2017 xuống 3,8% GDP năm 2021. Nợ chính quyền địa phương năm 2021 chỉ khoảng 0,6% GDP Dường như năm 2017 bằng 1,1% GDP.

Tính đến hết năm 2021, nợ nước ngoài của quốc gia giảm còn 38,4% GDP so với năm 2017 là 49% GDP. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia tính trên tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2021 là 6,2%, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so thu ngân sách nhà nước khoảng 21,8%.

Về đối tác đa phương của Việt Nam, bank Thế giới (WB) cho vay nhiều nhất khoảng 380 nghìn tỷ đồng, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho vay hơn 188 nghìn tỷ đồng. Hình như, các chủ nợ song phương của Việt Nam đang là Nhật Bản cho vay hơn 316 nghìn tỷ đồng; Hàn Quốc hơn 32 nghìn tỷ đồng, Pháp hơn 30.000 tỷ đồng; Đức hơn 14.349 tỷ đồng…

Xem Thêm  Số CIF là gì? Chức năng và cách hoạt động vui chơi của mã số cif – FTV

Xem Thêm : Soạn bài Hai cây phong ngắn nhất – Văn 8 tập 1 – Sachbaitap.com

Diễn biến dư nợ và nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ vẫn nằm trong dự báo từ đầu năm và trong tầm kiểm soát cho dù bất định tỷ giá khá mạnh. Cụ thể, dư nợ bằng $ là 455 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,9%; dư nợ bằng JPY là 346 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,5%; dư nợ bằng EUR là 179 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,5% và còn lại là dư nợ bằng các loại tiền khác chiếm 4%.

giải trình đánh giá xếp hạng tín nhiệm Việt Nam năm 2021 của Fitch Ratings cũng cho thấy, nợ chính phủ của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các quốc gia có cùng mức xếp hạng tín nhiệm ‘BB’. Kết quả này 1 phần phản ánh việc Việt Nam đã sớm thành công trong việc ngăn chặn dịch Covid-19. Tỷ lệ nợ chính phủ gộp trên GDP của Việt Nam được dự báo khoảng 42% GDP &o năm 2023, thấp hơn tương đối so với mức trung bình của các nước có cùng xếp hạng (khoảng 56%).

Xét về cơ cấu, nguồn vay của Chính phủ bây chừ phần lớn đến từ các kênh trong nước, chiếm khoảng 90% lượng huy động hằng năm của Chính phủ. Đối với nguồn vốn vay này, cho ra đời trái phiếu vẫn là phương án chiếm tỷ trọng cao. Theo số liệu năm 2021, kỳ hạn bình quân của trái phiếu là 13,92 năm và lãi suất phát hành bình quân là 2,3%/năm. hiện giờ, mức thanh khoản trái phiếu chính phủ được đánh giá vẫn có sự duy trì ổn định. Ngoài ra đó, 10% lượng huy động còn lại của Chính phủ là từ khoản vay nước ngoài (từ các tổ chức như WB, ADB và Nhật Bản) với kỳ hạn khoảng 20 – 30 năm, lãi suất ưu đãi khoảng 1,2%/năm.

Tính đến nay, có thể thấy các chỉ tiêu bảo mật an ninh nợ công đảm bảo nằm trong mức trần, ngưỡng nợ được Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 23/2021/QH15: Trần nợ công hằng năm không quá 60% GDP, trần nợ chính phủ hàng năm không quá 50% GDP, trần nợ nước ngoài quốc gia hằng năm không quá 50% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước không quá 25%, trả nợ nước ngoài của quốc gia so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ (không bao gồm trả nợ gốc ngắn hạn) không quá 25%.

Tiếp tục hoàn thiện công cụ quản lý nợ

Việc huy động vốn vay cả trong và ngoài nước của Chính phủ được đánh giá sẽ gặp gỡ không ít khó khăn, chủ yếu do tình hình kinh tế – xã hội tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới (bệnh dịch lây lan diễn biến khó lường, các xung đột chính trị phức tạp…). Chẳng hạn như đại dịch Covid-19 &o năm 2021 bùng phát cùng mạnh mẽ đã dẫn tới những hệ lụy kéo dài cho tới nay. Thực tế, bệnh dịch lây lan đã lan rộng ra rất nhiều các địa phương trên cả nước, đặc biệt có cả các vùng kinh tế trọng điểm. Theo đó, Việt Nam buộc phải áp dụng các biện pháp chặn đứng dịch bệnh, tuy nhiên lại gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất – buôn bán và đời sống của người dân, ảnh hưởng liên quan đến tăng trưởng kinh tế, thu – chi ngân sách nhà nước, cũng như việc thực hiện kế hoạch vay, trả nợ công…

Xem Thêm  TOP 4 Gà Chọi Hay Nhất Miền Bắc 20 Năm Trở Lại Đây

Xem Thêm : Facebook Ads là gì? 10 Điều cần biết về Ads Facebook – GTV SEO

Đối với nguồn vay từ trong nước, để đảm bảo tính đầy đủ và kịp thời trong việc trả nợ, nhiều khả năng buộc phải huy động nguồn vốn từ các công cụ nợ có kỳ hạn ngắn (từ 3 năm trở xuống). Trên thực tế, yêu cầu này sẽ làm gia tăng áp lực trả nợ, đồng thời tăng rủi ro tái cấp vốn cho ngân sách nếu kỳ hạn của các khoản vay mới không được tính toán cẩn trọng, cũng như phân bổ hợp lý lịch trả nợ của Chính phủ qua các năm.

Bên cạnh đó, các khoản vay nước ngoài cũng đang tiềm ẩn rủi ro khi chi phí vay có thể kém thuận lợi hơn trong bối cảnh việc tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức giai đoạn tới khả năng sẽ giảm. Do vậy, có thể cần sử dụng đến các công cụ nợ với các yêu cầu và điều kiện tương đương với thị trường. Nguồn vay trong nước theo đó cũng được dự báo gia tăng về áp lực trong công tác huy động, triển khai. Điều này đòi hỏi Chính phủ cần có kế hoạch vay, trả nợ công trung, dài hạn thận trọng, biến hóa linh động, nhằm đáp ứng nhu cầu quốc gia, đồng thời hạn chế những hệ lụy lâu dài cho sau này.

Bên cạnh đó, bây giờ chính sách quản lý nợ công gắn với chính sách tài khóa và tiền tệ. Tuy nhiên, chính sách quản lý nợ công mới chủ yếu tập trung &o huy động các nguồn vay ưu đãi, nghiệp vụ theo thông lệ quốc tế chưa thực hiện đầy đủ như: Gisát hại và đánh giá tất cả các khoản vay và giao dịch nợ để đảm bảo phù hợp với các thông số rủi ro đề ra trong chiến lược nợ; gisát hại rủi ro toàn bộ danh mục nợ chính phủ, kết nối giữa chính sách quản lý ngân quỹ và quản lý nợ công, cơ sở dữ liệu chia sẻ chung về nợ công… Do vậy, việc nghiên cứu phát triển mô hình cơ quan quản lý nợ công với đầy đủ chức năng theo thông lệ quốc tế phù hợp với trình độ phát triển nhu cầu quản lý của Việt Nam trong từng giai đoạn là cần thiết. Cùng với cải cách thể chế, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện công cụ quản lý nợ, cơ chế kiểm soát rủi ro đảm bảo dư địa tài khóa.

Xem Thêm  Axit Photphoric(H3PO4) là gì? Tính chất lý hóa, cách điều chế & ứng

Theo ông Francois Painchaud, Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế tại Việt Nam nhận định, dù đạt được những kết quả trong công tác quản lý nợ công, cơ chế quản lý nợ của Việt Nam vẫn mang tính phân tán, dẫn đến thông tin không tập hợp, thiếu nhất quán nên ảnh hưởng đến việc ra quyết định. Do đó, Việt Nam cần thống nhất các chức năng quản lý nợ như trong chiến lược nợ công đã đề ra. Việc tập trung các chức năng quản lý nợ về một nơi và hình thành cơ quan quản lý nợ chuyên trách là xu hướng, thông lệ tốt của thế giới mà Việt Nam cần hướng tới trong thời gian tới.

Hồng Loan (Viện CLTC)

 

Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp

Recommended For You

About the Author: badmin

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *