Nội dung chính
Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Phân tích Độc Tiểu Thanh kí để chứng minh nhận định. Bài viết phan tich doc tieu thanh ki tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
- PPPOE là gì? Vai trò và ứng dụng buổi giao lưu của PPPOE – Wifi FPT
- Động vật cũng có ý thức? – Tạp chí Tia sáng
- Tại sao phải tiết kiệm năng lượng: những lợi ích tiên phong hàng đầu của việc
- Màu thực phẩm tự nhiên | Cách dữ gìn và bảo vệ và những điều cần hiểu rõ
- Nhậu ve sầu: Đặc sản mùa hè 200 ngàn/kg – VietNamNet
ĐỀ BÀI :
Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua đoạn trích “Độc Tiểu Thanh kí”
Bạn Đang Xem: Phân tích Độc Tiểu Thanh kí để chứng minh nhận định
BÀI LÀM
“Tiếng thơ ai động đất trờiNghe như non nước vọng lời nghìn thu”Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng có lẽ những vần thơ Nguyễn Du vẫn mãi trường tồn trong lòng người đọc. Bởi lẽ nhà đại thi hào viết thơ “ như có máu nhỏ trên đầu ngọn bút , nước mắt thấm qua trang giấy”. Thơ ông đề cập sâu sắc đến nỗi đau từ cổ chí kim của con người nhất là người phụ nữ – những “kiếp hồng nhan” hay những kẻ tài hoa mà bội nghĩa mệnh.Và “Độc Tiểu Thanh kí” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho tấm lòng thương người tiếc tài của đại thi hào Nguyễn Du. Chính cái tâm sang ngời ấy đã khiến tác phẩm của ông sống mãi trong suốt trường kì lịch sử hay còn bởi con mắt tinh tường trông 6 cõi như nhà văn, nhà triết học Pháp Didorot nói: “Nghệ thuật là chỗ tìm ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường”.
Giữa cuộc sống thường nhật đầy rẫy những bộn bề, lo toan, hiếm có ai thử sống chậm lại để một lần cảm nhận về những điều phi thường trong vô &n điều hết sức thông thường ấy. “ Tìm ra điều phi thường trong cái thường ngày” là 1 cách khám phá, 1 cách nhìn sâu sắc mọi vấn đề. Nếu chỉ tìm hiểu về những thứ hào nhoáng, hời hợt ở vẻ hiệ tượng thì sẽ chẳng bao giờ ta có thể nhận ra được vẻ đẹp tiềm ẩn phía bên phía trong thứ vật chất phù du ấy. Nhưng “ từ trong cái phi thường ta phải nhận ra được những thứ thường nhật”. Đây lại là 1 cách đánh giá bao hàm , đơn giản hóa vấn đề, phải có con mắt tinh tế lắm thì ta mới dễ dàng nhận ra vẻ đẹp bình dị, rất đỗi thân quen của đối tượng cần nhắc đến. Nhận định của Dodirot đã đưa ra một quan điểm hoàn toàn xác đáng : “ Người nghệ sĩ phải có cái nhìn linh hoạt, thấu đáo, đa phương diện về một vấn đề hay đối tượng vhọc tập”.
Mộng Liên Đường chủ nhân có nói: “Nguyễn Du có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn đời” Thật vậy , tấm lòng Nguyễn Du luôn bồn chồn lo cho con người,ông vui với niềm vui của con người, đau cùng nỗi đau con người, phải khóc, phải cười, phải trăn trở với con người. Thơ ông trở nặng suy tư , đau đáu một nỗi niềm : “ Nhân đức thế thái”. Lời thơ như tiếng tri âm, đồng cảm của những kẻ cùng chung số phận đặc biệt là Tiểu Thanh trong tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” .Hai con người như hòa &o làm một để cất công bố than đau đến đứt ruột.
Trong xã hội phong kiến đương thời, có biết bao nhiêu người phụ nữ phải sống trong những nỗi đày đọa triền miên cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Nguyễn Du lại không viết về những người phụ nữ ấy mà chính cái tài “tìm ra điều phi thường trong cái tầm thường” đã giúp ông vượt qua cả rào cản về mặt thời gian( cách xa hơn 300 năm) và không gian địa lí trắc trở( Trung Quốc) để tới tri âm với nàng Tiểu Thanh- người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ.rầu rĩ, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ,giờ chỉ còn lại một số bài thơ gọi là “phần dư”.
Câu thơ đầu tiên cất lên là lời than cho cái đẹp bị dập vùi, tàn phá phũ phàng:“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”Cảm xúc trước sự đổi thay của cuộc đời là cảm xúc mang tính nhân văn khá phổ biến trong thơ trung đại. Nguyễn Trãi thăm núi Dục Thúy mà cảm khái trước cảnh “rêu phủ nét chữ người xưa”.Bà Huyện Thanh Quan bùi ngùi trước cảnh “dấu xưa xe ngựa” giờ chỉ còn là “ hồn thu thảo”, “ nền cũ lâu đài” gợi nhớ một triều đại rực rỡ đã đi qua. Câu thơ của Nguyễn Du có gợi lên lẽ đời dâu bể nhưng mối thương tâm của thi nhân lại đặt nơi cái đẹp bị tàn phá phũ phàng.Bức Ảnh thơ đối lập: cảnh đẹp >< gò hoang gợi nghịch cảnh éo le. Từ “tẫn” trong nguyên bản chữ Hán “tẫn thành khư” gợi sự đổi thay mãnh liệt không còn dấu vết nào.Dường như phải có một con mắt tinh tế lắm mới có thể nhận ra đống đổ nát nơi gò hoang xưa đã từng là một địa danh rất đẹp. Thời bất chínhn phá lên mọi cảnh vật , phủ mờ đi tất cả. Đang trong dòng hoài niệm bỗng tác giả sực tỉnh và trở về thực tại, với nghịch cảnh trớ trêu, nghịch cảnh giữa qúa khứ và thời điểm này, giữa vẻ đẹp huy hoàng/sự hoang vu cô quạnh.
Nhớ đến Tây Hồ là nhớ đến nàng Tiểu Thanh- người con gái tài hoa Bạc mệnh. Nguyễn Du xót xa tiếc nuối, ảm đạm trước số phận nghiệt ngã của Tiểu Thanh .Cái chết của nàng là bằng chứng xót xa cho một kiếp hồng nhan, từ đó càng nuối tiếc trước cảnh và Hotgirl đều chịu chung số phận. Nếu như trong Truyện Kiều, Thúy Kiều tri ngộ với số phận Đạm Tiên qua lời kể của Vương Quan thì ở Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du thấu hiểu nỗi oan khiên của Tiểu Thanh qua “ mảnh giấy tàn” trước song cửa sổ:
“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”Cuộc tri ngộ giữa Thúy Kiều và Đạm Tiên còn có sự chứng kiến của chị em Kiều , còn viếng thăm của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh chỉ qua một tập sách bị đốt dở. Chữ “ độc” và chữ “nhất”trong câu thơ chữ Hán cũng là để nói một lòng đau tìm gặp gỡ một hồn đau.Ông đã một mình đối diện với số đời của Tiểu Thanh. Đây phải chăng là sự đồng cảm giữa “tài tử và giai nhân”,giữa “xưa và nay”.
Xem Thêm : Quân AP là ai? Tiểu sử, đời tư, sự nghiệp ca sĩ Phạm Anh Quân
Người con gái với số phận nghiệt ngã là thế nhưng với ngòi bút nhân đạo của mình, ông đã khai phá được những vẻ đẹp nhân kiệt và tâm hồn ẩn sâu bên trong con người nàng. Đời Tiểu Thanh là điển hình của hai nỗi oan lớn: hồng nhan bạc phận, tài mệnh tương đố.người đẹp như nàng mà bất hạnh, chết yểu. Có tài thơ văn như nàng mà bị dập vùi. Di cảo của Tiểu Thanh chính là di hận:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn chương vộ mệnh lụy phần dư”.
Nguyễn Du nhắc đến cuộc đời Tiểu Thanh bằng những ẩn dụ tượng trưng quen thuộc , son phấn là biểu tượng cho sắc đẹp, văn chương là ẩn dụ cho tuấn kiệt của Tiểu Thanh .Hai vật thể vô tri vô giác được nhân cách hóa như có “thần”,có “ hồn”. Chính nước mắt và máu của Tiểu Thanh đã tạo nên “cái thần”,”cái mệnh”của son phấn, văn chương, hay “niềm cảm thông lạ lung của nhà đại thi hào dân tộc”(hoài Thanh) đã tạo “thần”,cái “hồn” để nó để cho nó để nỗi hận còn vương đến muôn đời ?Cảm xúc của Tố Như càng dồn nén thì câu thơ càng dẫn đến tính đa nghĩa.Nếu hiểu văn chương là chủ thể tự hận thì dẫn đến cách cảm: son phấncó thần, cũng phải xót xa về những việc làm sau khi chết, văn chương không có số mệnh gì cũng bị đốt dở. Nếu hiểu “son phấn”, “văn chương” là đối tượng thương cảm của người đời thì có cách hiểu: son phấn như có thần, sau khi chết người ta còn thương tiếc, văn chương có số mệnh gì mà người ta phải bận tâm đến những bài thơ còn sót lại. Tiểu Thanh đẹp , hào kiệt là thế,ai mới trông qua tưởng đó là một người phụ nữ “phi thường”,hội tụ tất cả hào kiệt của ngụ ý phong kiến, nhưng họ cũng giống như những người phụ nữ khác đương thời,cũng phải chịu một nỗi đau chung, rất “bình thường” cả về thể xác lẫn tinh thần.
Nhưng xét đến cùng nó cũng quy &o cảm hứng vĩnh hằng của Nguyễn Du trước cái đẹp và tuấn kiệt. Ta đã từng gặp nỗi niềm thương cảm của Nguyễn Du thương cho “nghiệp chướng phấn son”, nhưng đồng thời ca ngợi một trang giai nhân tuyệt sắc: “Non bồng xa xuống một cành xinh/ Sắc đẹp màu xuân nức sáu thành” khi viếng ca nữ đất La Thành. Trong “Độc Tiểu Thanh kí”,cái đẹp có thể tàn về than xác nhưng “chôn vẫn hận”.Cái mệnh của Tiểu Thanh thật ngắn ngủi còn cái mệnh của văn chương thì “đốt còn vương”. Giọt nước mắt xót thương cho số phận Tiểu Thanh đã kết tinh lại thành hạt châu trân trọng và ca ngợi cái đẹp.Nếu đặt trong cảnh ngộ lúc bấy giờ, xã hội phủ nhận nhân kiệt,trí tuệ của người phụ nữ thì tác phẩm của Nguyễn Du lại càng được đánh giá cao bởi chiều sâu nhân đạo.
“Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Nguyễn Du đã từ cái hận của Tiểu Thanh mà nghĩ đến cái hận muôn đời, cái hận nay cứ triền miên không bao giờ chấm dứt.Từ nỗi đau riêng của Tiểu Thành mà quy thành nỗi đau từ cổ chí kim của bao kiếp người tài hoa. Nỗi oan của Tiểu Thanh trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ – những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ – và bao người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời” (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức ủa nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng diễn đạt một sự bế tắc của Nguyễn Du. Do vậy nỗi hận trở nên quá lớn khó mà hỏi trời được: “Thiên nan vấn”. Lời thơ như lời than, ân oán trách ông trời vì lẽ đời nghiệt ngã, trái ngang đã đẩy bao kẻ ấm no &o kiếp đời buôn ba, đau khổ.Nhưng có hỏi trời thì cũng chẳngmong một câu trả lời, vì thế càng hận, càng nhức nhối.Nỗi đau của Tiểu thanh vốn dĩ rất riêng nhưng Nguyễn Du đã tinh tế nhận ra nỗi đau rất bình thường, rất mênh mông rãi- đó là nỗi đau của cả một lớp người, một thế hệ:
“ Cổ kim hận sự thiên nan vấn”Bên cạnh nỗi hận là cái “án giàu có”. Và đây lại là một nghịch cảnh chua xót; khách phong lưu mà phải khổ, phải mang cái án oan lạ lung vì nết phong nhã. Đến câu thơ thứ sáu thì khách thể và chủ thể đã hòa &o làm một:
“Phong vận kì oan ngã tự cư”Câu thơ dịch chữ “ngã” thành chữ “khách” đã không tô đậm được yếu tố chủ thể nhập thân &o khách thể.Nguyễn Du tự cho mình là người cùng hội với Tiểu Thanh.Đó là tình cảm chân thành đồng điệu của Nguyễn Du, cũng biểu thị tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông. Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hóa thân &o nàng Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho là mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam trước ông có lẽ hiếm ai biểu đạt sâu sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế. Tâm sự chung của những ngưòi bận rộn “kỳ oan” đã đưọc đãi đằng trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người đọc cũng không khỏi bùi ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ. Vậy là từ giọt lệ thương người, khóc người, Nguyễn Du đã chuyển sang tự thương mình.Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ là niềm mong ước được tri âm của Nguyễn Du ở hậu thế:
“Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du không hỏi quá khứ, giờ đây mà hỏi tương lai, không hỏi trời, đất mà lại hỏi người đời.Hỏi ba trăm năm sau,thiên hạ có ai khác Tố Như?Với Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đãcó một Nguyễn Du “thổn thức bên song” với “mảnh gả giấy tàn”. Còn Nguyễn Du liệu có ai khóc, ai đau cho phận đời trôi nổi. “Bất tri”-không biết được. Niềm tự thương kết tụ thành một lời thắc bận bịu lơ lửnggiữa không trung mà chẳng ai có thể giải đáp được vì thế tự đau đến cực độ.Ông muốn tìm thấy sự tri âm ở mai hậu bởi lẽ khi con người taco đơn, lạc lõng mới dễ trở nên yếu đuối,vô vọng.Nhà thơ khác khoải hoài vọng ở tương lai: đời sau trong muôn một còn có kẻ “khóc người đời xưa”bởi thời đại Nguyễn Du khổ đau,khát khao được giải tỏa nhưng vẫn bết tắc.thuyệt vọng nhưng vẫn không thôi hi vọng.vậy cho nên, nỗi niềm Tố Như gửi tới mai hậu không phải là sự tuyệt vọng mà là niềm hi vọng được giải tỏa.
Xem Thêm : Nguyên nhân nào dẫn đến sự thất bại của phái Gia-Cô-Banh?
Tự thương mình là một nét mới mang tinh thần nhân bản cuả thời đại cuối thế kỉ thứ XVIII-đầu thế kỉ XIX-thời đại con người chưa ý thức được vè bản than, về tài năng, nỗi đau của chính mình.Sự tự thương mình là sự tự ý thức,là bằng nước mắt mà thấm in bản ngã của mình để chống lại sự chi phối của quan niệm “phi ngã”, “vô ngã”.Bài thơ khởi đầu bằng khóc người , thương người nay kết thúc bằng khóc mình, thương mình. Khóc người,thương người là sự mênh mang cao cả của trái tim nhân đạo. Khóc mình, thương mình là sự sâu sắc của tư tưởng nhân văn. Độc Tiểu Thanh kí đã hội nhập được cả hai điều đó .
Chỉ với tám câu thơ nhưng người đọc đã đủ cảm nhận được một tâm hồn tha thiết yêu cuộc sống, yêu con người của đại thi hào Nguyễn Du. Không cần đến 200 năm sau , hậu thế vẫn luôn nhớ đến ông, nhớ đến những vần thơ tràn đầy xúc cảm như thứ ánh sáng lấp lánh nổi bật lên kho tằng văn thơ trung đại nói riêng và vhọc tập Việt Nam nói chung:“Hỡi Người xưa của ta nay Khúc vui xin lại so dây cùng Người.”(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)Nghệ thuật chân chính không nhất thiết là phải dùng những ngôn từ mĩ lệ , những đề tài mới chưa ai khám phá mà“Nghệ thuật là chỗ tìm ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường” . Muốn vậy kẻ làm thơ phải có năng khiếu, có vốn văn hóa mênh mông rãi, lí tưởng thẩm mĩ cao đẹp, hơn hết là một cái tâm sáng ngời bởi lẽ “ thơ là tiếng lòng” ( Diệp Tiếp).Qua tác phẩm văn chương, nhà thơ nhìn đời một cách cao đẹp, đầy giá trị nhân văn.Nhờ việc hiểu rõ về những thứ “tầm thường” , “phi thường” thi sĩ có cách đánh giá sâu sắc về cuộc đời. Từ cuộc đời Tiểu Thanh đầy rẫy nhưng đau khổ bất công, nhà thơ bày tỏ thái độ cảm thông, tiếc nuối , tiếc cho lẽ đời dâu bể:
“ Trải qua 1 cuộc bể dâuNhững gì trông thấy mà đau đớn lòng”.Chính cái tài thấu muôn đời muôn kiếp ấy đã đưa tên tuổi Nguyễn Du trở thành một nhà thơ hang đầu của nền vhọc biện pháp hành độngết. Ấy thế mới thấy rõ được quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật của thi sĩ gian nan biết chừng nào. Phải cám ơn những nhà văn, nhà thơ như thế , người đời mới có thể hiểu rõ về mọi vật trong cuộc sống từ cơ bản, bao hàm nhất đến chi tiết, nâng cao.
L.Tônxtôi khẳng định:”Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của ái tình.Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì 1 xã hội công bằng,đồng đẳng nhân ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn và viết,vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ,hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại”. Nguyễn Du đã đem lòng thương cảm của mình để khóc cho người con gái xa lạ Tiểu Thanh, khóc cho một lớp người “phong vận kì oan”. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Du đã lưu dấu ấn của mình trong lòng bạn đọc để rồi nở hoa thành những lẽ sống đẹp, nhân đức.
Bài viết của Thủy Tiên, Một thành viên ưu tú của Thích Vhọc hành.
tham khảo thêm:
Cảm nhận bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du
đọc thêm các bài văn mẫu nâng cao tại chuyên mục: https://thichvanhoc.com.vn/van-mau/nang-cao/
Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB: Thích Văn Học
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp