Nội dung chính
- 1 I. Tìm hiểu chung
- 2 II. Phân tích
- 3 Nhận xét:
Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Phân tích chi tiết bài thơ “Sóng” – Xuân Quỳnh – Lớp Văn Cô Thu. Bài viết soan song xuan quynh chi tiet tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
I. Tìm hiểu chung
-
Nhà thơ Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh (1942 – 1988) quê ở La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây. Năm 13 tuổi, Xuân Quỳnh trở thành diễn viên múa. Năm 21 tuổi, Xuân Quỳnh chuyển sang làm báo, rồi làm canh chỉnh và sửa chữa và biên tập viên báo Văn nghệ, biên tập viên NXB Tác phẩm mới, Ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.
Bạn Đang Xem: Phân tích chi tiết bài thơ “Sóng” – Xuân Quỳnh – Lớp Văn Cô Thu
Tác phẩm tiêu biểu : thơ Tơ tằm – Chồi biếc (in chung, 1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào bãi cát trắng (1974), Hoa cỏ may (1989).
Xuân Quỳnh thích làm thơ ngay từ khi còn là diễn viên múa và là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân quỳnh bộc lộ một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân tình nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
Năm 2001, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Nhà nước về vhọc tập nghệ thuật.
Đặc điểm thơ Xuân Quỳnh:
Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ chị là tiếng lòng của một tâm hồn tươi trẻ, luôn khát khao ái tình, “nâng niu chi chút” từng hạnh phúc bình dị đời thường. Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Xuân Quỳnh xứng đáng được gọi là nhà thơ tình ái. Chị viết nhiều, viết hay về tình ái trong đó “Sóng” là một bài thơ đặc sắc.
Đặc điểm nổi bật trong thơ tình ái của Xuân Quỳnh là chị vừa khát khao một ái tình lý tưởng và hướng tới một hạnh phúc bình dị thiết thực: “Đến Xuân Quỳnh, thơ hiện đại Việt Nam mới có một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khát khao tình ái vừa hồn nhiên chân thực, vừa mãnh liệt sôi nổi của một trái tim phụ nữ.
“Sóng” là bài thơ đã kết tinh những gì sở trường của hồn thơ Xuân Quỳnh. Nhưng thành công đáng kể nhất là Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để diễn tả những cảm xúc vừa phong phú phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương.
2. Bài thơ Sóng
a. cảnh ngộ sáng tác
Sóng là một bài thơ tình ái rất đằm thắm của Xuân Quỳnh, lời tự hát tình ái chân thật, nồng nàn.
Bài thơ Sóng được Xuân Quỳnh sáng tác năm 1967, tại bờ biển Diêm Điền, in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968). Sóng là một trong những bài thơ tình ái hay nhất của Xuân Quỳnh .
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nứơc sôi lửa bỏng, vhọc tập thời đại thường âm vang cảm hứng hero ca, ca tụng chủ nghĩa hero, thì Sóng dường như chỉ nói về ái tình thuần túy, đời thường. Nhưng vẻ đẹp dịu dàng, chung thủy trong tâm hồn ái tình của người con gái diễn tả trong bài thơ đẹp như một “bông hoa dọc chiến hào”.
b. Chủ đề:
Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh diễn tả cụ thể, sinh động khát vọng tình ái với những cung bậc tình cảm phong phú và vẻ đẹp tâm hồn của ng fụ nữ trong ái tình, hồn nhiên chân thật, say đắm nống nàn, đôn hậu, thủy chung
II. Phân tích
-
Sóng – biểu tượng của khát vọng ái tình với nhiều trạng thái đối lập cùng tồn tại thống nhất
bắt đầu bài thơ, thi sĩ đã quan sát và miêu tả những đặc tính đối lập của sóng:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
ông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
+ Hai câu đầu : Dữ dội và dịu êm – Ồn ào và lặng lẽ
Là những từ ngữ đối lập : Dữ dội/dịu êm , Ồn ào/lặng lẽ
Đặc tính của những con sóng biển là lúc có phong ba, bão táp, chúng vô cùng dữ dội, ồn ào. Còn lúc trời êm, biển lặng thì chúng vô cùng hiền hòa, êm dịu. Những sắc thtình yêu cảm đa dạng, phức tạp ấy cũng chính là những sắc thái của tình ái của con người.(Có lúc ồn ào, lúc lại êm đềm;khi thì mãnh liệt, ngọt ngào; có lúc giận hờn, gen tuông,…). Tuy vậy, những sắc thtình yêu cảm ấy lại thống nhất trong một chủ thể, không hề mâu thuẩn nhau, đó là trong “tình ái”.
+ Hai câu sau:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
“Sông” không hiểu “sóng” nên buộc “sóng” phải bỏ “sông” tìm ra với “bể”. “Sông” và “bể”, hai không gian trái ngược nhau: một cái thì chật chội, tù túng, nhỏ hẹp một cái thì bao la, bát ngát, mênh mông rãi rãi rãi rãi .Hình ảnh ẩn dụ: cái chật hẹp cái bát ngát, bao la.
Phép tu từ ngữ âm được sử dụng: tác giả dùng từ “bể” chứ không phải là “biển”: “bể” là một âm tiết mở, tạo cảm giác một không gian mênh mang, mênh mang hơn. Hành trình của “sóng” từ “sông” ra “bể” là một hành trình gian nan, một hành trình thoát khỏi một cái chật hẹp để đến với một cái mênh mang hơn. Chỉ khi đến với “bể”, một cái bao la, mênh mang hơn, “sóng” mới được tự do thỏa mình, tung tăng, vùng vẫy,. Trong tình ái, người con gái luôn khao khát một tình ái đúng nghĩa, một ái tình chân chính, đích thực . Họ luôn có khát vọng vươn tới tình ái cao đẹp, lớn lao, cao thượng ấy . Muốn vậy thì phải cần có sự đồng điệu của hai tâm hồn. Cách nói của Xuân Quỳnh là 1 cách nói táo bạo, mạnh mẽ đã nói lên những mong muốn, khao khát của mình, của những người phụ nữ như mình.
Trong khổ thơ đầu, tác giả đã diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau muôn đời của sóng biển. Hai đối cực ấy hoàn thiện vẻ đẹp của sóng lúc mạnh mẽ cuộn dâng, khi dịu nhẹ, êm đềm. Hai trạng thái đối lập này cùng tồn tại trong một thể thống nhất là sóng, khiến sóng luôn dạt dào, không bao giờ đứng yên. Điều đó cũng tương đồng với tâm hồn, sự kì lạ của người phụ nữ khi yêu. Đó là những biến đổi trong sâu thẳm tâm hồn người con gái; khi dịu dàng say đắm, lúc mạnh mẽ giận hờn . Hình tượng ẩn dụ “sóng” là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh . Nếu trước đó, Xuân Diệu, trong bài thơ Biển đã mượn hình tượng sóng để nói về ái tình với những khát vọng của “anh”, của người con trai thì Sóng của Xuân Quỳnh lại là những khát vọng tình ái của “em” – của người con gái với những cảm xúc tình cảm phong phú, phức tạp. Ở lớp nghĩa tả thực, hình tượng sóng được miêu tả cụ thể, sinh động với những trạng thái mâu thuẫn, trái ngược nhau. Còn ở lớp nghĩa biểu tượng, sóng như có hồn, có tính cách, tâm trạng, gợi đến sự phong phú trong tâm hồn ng con gái khi yêu – vừa say đắm vừa tỉnh táo, vừa nồng nhiệt vừa âm thầm, lúc sôi mãnh liệt, lúc lại kín đáo, sâu sắc. Hình tượng sóng lại được khắc họa tòan vẹn, linh họat qua mạch cấu trúc các khổ thơ, mỗi khổ là một khám phá về sóng, và song hành với sóng là “em”. Sóng và “em” có khi tách đôi soi chiếu &o nhau vẻ đẹp tương đồng, có khi đan cài quấn quýt, gợi một ái tình nồng thắm, có khi lại hóa thân làm một, cộng hưởng vẻ đẹp trong nhau. kết cấu song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo cho bài thơ. Bởi mọi tính chất của sóng đều được quy chiếu về ái tình của ng con gái: tâm thành, nồng hậu, say đắm, thủy chung, nhiều âu lo và khát vọng.
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể.
Xuân Quỳnh liên tưởng độc đáo đến khát vọng ái tình của nhân loại. Đó là khát khao chân chính của tình ái đích thực muốn vượt khỏi không gian chật hẹp, nhỏ bé để vươn tới cái lớn lao, cao cả hơn. Phép nhân hóa “Sóng tìm ra tận bể ”gợi liên tưởng sóng như có ý thức, có khát vọng tìm đến cái bát ngát, bao la. Những đặc điểm này của sóng đã có “từ ngày xưa và ngày sau vẫn thế”, cách nói khẳng định, nhấn mạnh, đây là bản chất muôn đời của sóng. Cách miêu tả những trạng thái bất thường của sóng gợi lên những khát vọng ái tình trong tâm hồn đầy kì lạ của người con gái, khi bồng bột, sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc, vừa đắm say vừa tỉnh táo, vừa nồng nàn, vừa âm thầm, vừa mãnh liệt vừa ngàn lần yếu mềm. Điểm gặp gỡ đồng điệu và kì lạ giữa sóng và anh hùng trữ tình “em” cho thấy sóng chính là ẩn dụ của “em”, của khát vọng ái tình nhịều thao thức nhưng hạnh phúc vô bờ. Sóng tự ngàn năm vẫn từ sông ra bể, từ giới hạn chật hẹp tới không gian bao la. Tương tự thể, trái tim người con gái khi yêu cũng tự nhận thức được những biến động khác thường của lòng mình, khao khát vượt ra giới hạn chật hẹp cô đơn của cái tôi cá nhân, tìm đến sự rộng lớn bát ngát của tình ái thương giống như hành trình của sóng từ sông ra bể. Hình ảnh ẩn dụ này cũng gợi đến những khát khao, suy tư, trăn trở trong trái tim xôn xao, rạo rực tình ái của ng con gái.
Khát vọng tình ái gắn liền với tuổi trẻ, đó là khát vọng muôn đời của nhân loại, mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình ái
bồi hồi trong ngực trẻ
+ “vẫn thế’”: vẫn dữ dội, vẫn diệu êm, vẫn khao khát tìm về với biển. Con sóng ngày xưa, bây giờ và cả mai sau “vẫn thế”, bản tính muôn đời của sóng cũng là bản chất muôn thuở của ái tình.
+ Bốn câu thơ trên đã vẽ nên tình ý của Xuân Quỳnh: những con sóng, ngày xưa, ngày nay hay về sau, vẫn luôn khao khát tìm về với biển rộng. Và tình ái cũng vậy, ái tình ngày xưa, ngày nay hay mai sau luôn như thế, đây là một quy luật muôn đời. Con người muôn đời luôn tìm về tình ái chân chính, đích thực, nhưng những khát vọng về ái tình mãnh liệt nhất là ở tuổi trẻ.
2. Những trạng thái, sắc độ của tình ái thông qua sự khám phá, suy ngẫm của “em” về sóng
ái tình gắn liền với suy tư, băn khoăn: tình ái có từ khi nào? Khi tình ái đến có một tâm lí rất tự nhiên và thường tình là ng ta luôn có nhu cầu tự tìm hiểu. Con người đã từng có những khám phá vô cùng kì diệu về tự nhiên nhưng tự hiểu về chính mình lại rất khó. Hiểu mình trong tình ái lại càng khó hơn bởi tình ái là một trạng thái tâm lí khác thường, đầy kì lạ và huyền dịệu, nó có những lí lẽ riêng của con tim mà lí trí thông thường không thể lí giải được.
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Xem Thêm : Tải Star Wars: Battlefront – Cuốc chiến giữa những vì sao
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió khai mạc từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Đứng trước biển, Xuân Quỳnh đã có hai lần suy nghĩ: nghĩ về anh, em và nghĩ về “sóng biển”.
+ Điệp ngữ, “em nghĩ’, về “anh, em” và “sóng” biển ^ Em đã suy tư, thao thức, trằn trọc, đã đặt ra nhiều thắc mắc. “Em nghĩ” diễn tả sự thao thức suy tư của người con gái trước thắc mắc cội nguồn của sóng cũng như thắc mắc cội nguồn của tình ái. Đó là thắc mắc của muôn đời và muôn người nhưng chưa bao giờ có câu vấn đáp trọn vẹn. Thi sĩ Xuân Diệu, ông hoàng của thơ tình đã phải mượn cảm hứng lãng mạn để lý giải tình ái đó sao:
“Làm sao giải nghĩa được ái tình
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng hương nhè nhẹ gió hiu hiu”
Hay Hàn Mặc Tử cũng thế, nhà thơ viết rằng:
“Xin hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nứơc hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để nghe trời giải nghĩa yêu”
Băn khoăn: ái tình bắt nguồn từ đâu?
ái tình thật mãnh liệt, người đang yêu đôi lúc lắng động, “dừng lại”, tự suy nghĩ, tự đặt ra những câu hỏi cho bản thân mình, hỏi về đôi ta, hỏi về biển. Đây là một lối sống chủ động, đáng khen.
+ Tác giả hỏi “nơi nào sóng lên”, được đáp lại. Rồi lại hỏi tiếp, và câu vấn đáp là “không biết”, 1 cách trả lời hồn nhiên, thực lòng nhưng sâu sắc, không hời hợt.
+ Những câu hỏi về những khái niệm, hiện tượng, “sóng”, “gió”, có thể dùng khoa học để giải thích, nhưng thật khó để giải thích khi thì chúng Hiện tại, khi thì chúng lúc khác.
Điều mà Xuân Quỳnh muốn nói là ái tình cũng vậy, thật khó để giải thích 1 cách tận tường. Và vì thế ái tình là một “hiện tượng” kì lạ như thiên nhiên ,kì lạ , Hấp dẫn, quyến rũ . Nhưng ta lại sung sướng, hạnh phúc về ái tình, có lẽ vì điều đó. Và cũng bởi tình ái là một tình cảm đẹp rất thật nhưng khó nói nên lời, cảm thấy rất rõ nhưng không dễ nắm bắt. Câu hỏi “Gió khởi đầu từ đâu?” không phải không giải thích được nhưng “em cũng không biết nữa” lại là cái lắc đầu nhỏ nhẹ, dễ thương, đầy nữ tính trứơc sự bí ẩn kì dịêu của ái tình. Xuân Quỳnh đã nắm bắt được một trạng thái tâm hồn rất chân thật, có tính chung cho mọi lứa đôi và mô tả nó thật duyên dáng. tình ái cũng như gió trời, sóng bể, cũng tự nhiên, hồn nhiên, bất ngờ và khó hiểu như thiên nhiên. Có thể nói, đây là cách bắt gặp ái tình rất nữ tính, trực cảm, kiểu Xuân Quỳnh .
ái tình là nỗi nhớ, nỗi nhớ là bản tính của ái tình. tình ái kì diệu đầy bí ẩn, nhưng tình ái cũng gắn với nỗi nhớ khi cách biệt:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Yêu là nhớ, không nhớ thì không phải là yêu, đây là một quy luật, không thể bắt trái tim đi ngược lại quy luật này. Trong ca dao, dân ca; trong văn học Trung cổ, Đông-Tây đều bộc lộ quy luật đó:
Nhớ ai ra ngẩn, &o ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai.
Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em
(Nguyễn Bính)
Anh nhớ bóng, anh nhớ hình nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!
Nhưng Xuân Quỳnh lại nói, “Con sóng nhớ bờ/Ngày đêm không ngủ được‘’’ . Nhớ thế vẫn chưa đủ, nỗi nhớ quá nhiều. Ở các khổ thơ trước, tác giả viết theo quy tắc: “sóng” là “em”, “em” là “sóng”. Còn ở khổ thơ đặc biệt này, hai hình tượng “em” và “sóng” đi đôi với nhau . Làm cho nỗi nhớ càng thêm mãnh liệt, da diết, cồn cào; tình ái có trong ý thức lẫn tiềm thức. Không thể nào yên, không bao giờ nguôi như sóng biển vô hồi, vô hạn, bát ngát .
Khổ thơ trùng điệp Bức Ảnh những con sóng, gợi nỗi nhớ nồng nàn với nhiều cung bậc. Có khi, mặt biển lớn lao như biển cả, có lúc lại da diết, triền miên với thời gian, ngày đêm không ngủ được, lại có lúc trải rộng thiết tha với không gian phương Bắc, phương Nam và lại có lúc cũng không giấu nổi nỗi khắc khỏai như con sóng nổi trên mặt nước. Và đôi khi, nỗi nhớ cũng chìm sâu trong trăn trở, nhớ quay quất trong lòng như con sóng ngầm dưới biển sâu. Không chỉ “nhớ anh, hướng về anh, nghĩ về anh” tình ái đã chiếm đầy con tim, khối óc, trở thành lẽ sống, trở thành khát vọng của cả cuộc đời. Hình ảnh sóng được nhân hóa mang “tình em” và “nỗi nhớ” của em thật thi vị. Từ cảm “ôi” xuất hiện giữa dòng thơ như một tiếng lòng rung rung giữa niềm nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ được diễn tả trực tiếp qua ẩn dụ sóng đã da diết, sóng nhờ bờ đêm ngày, sóng ru, sóng vỗ, sóng vẫn thao thức với thời gian. Nỗi nhớ ấy tự nhiên,hồn nhiên, say đắm nhưng dường như vẫn chưa đủ mà còn được miêu tả trực tiếp qua nỗi nhớ của hero trữ tình “em”:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
cấu trúc thơ thay đổi, cả bài là những khổ bốn dòng, nỗi nhớ lại được diễn tả bằng khổ thơ sáu dòng, đã bộc lộ cái tôi riêng của người nữ sĩ – một nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu. Nó nồng nàn, đằm thắm hơn cả nỗi nhớ của sóng với bờ vì nó không chỉ tồn tại trong ý thức, mà dường như còn len lõi &o trong tiềm thức, xâm nhập cả &o trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.
Xem Thêm : Quy đổi từ mJ sang J (Milijun sang Jun)
3. ái tình gắn liền với tấm lòng chung thủy và niềm tin
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Một khẳng định, “Yêu thì nhớ”, nhưng chỉ “nhớ” thôi thì đó không phải là một tình ái sâu sắc. Mà tình ái cũng cần đến sự thủy chung: đó là một trong những phẩm chất cao quý cần có của một tình ái đẹp. Sự thủy chung được nhấn mạnh: các từ ngữ chỉ phương hướng ^ Diễn tả sự cách trở, khó khăn ^ Nhưng dù sao đi chăng nữa thì người con gái vẫn định vị cho mình “một phương”, vẫn “Hướng về anh-một phương”, trước sau như một, vẫn giữ tấm lòng thủy chung, son sắc với người mình yêu. Ví như trong ca dao: Thuyền về có nhớ bến chăng/Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền: sự son sắc thủy chung của người con gái.
Điệp từ “dẫu” như khẳng định bao nhiêu thử thách, khó khăn phải vượt qua dù không gian mở rộng đa chiều “phương bắc/phương nam” đầy cách xa trắc trở, dù thiên nhiên trời đất đổi thay “xuôi bắc ngược nam” nhưng nơi nào có “anh”, với“em”“hướng về anh một phương” bằng tình ái thủy chung, duy nhất.
Nỗi nhớ ở đây cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn dạt dào như những con sóng triền miên dai diết vô hồi vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài gợi đến nhịp của sóng. Nhưng rõ nhất, sôi nổi nhất, mãnh liệt nhất chính là ở đoạn thơ này: ngược cũng là xuôi và trái tim ái tình của em luôn chung thuỷ, luôn hướng về phương có anh.
4. ái tình là sự dâng hiến với khao khát bất tử hoá ái tình:
+ Trước Xuân Quỳnh có lẽ chưa ng phụ nữ nào nói về ái tình bằng những lời thiết tha, nồng nàn cháy bóng như thế. Những khát vọng yêu đương của ng con gái trong thơ được bộc lộ mãnh liệt nhưng cũng thật giản dị: sóng chỉ khao khát tới bờ, cũng như “em”“anh”. tình ái của người con gái ở đây trong sáng, mãnh liệt, thiết tha, giản dị, thủy chung, một tình ái hết mình và quên mình. Đó là điều rất mới mẻ cả trong đời lẫn trong thơ thời ấy. Khát vọng mtình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ da diết khi còn trẻ, mà cả sau này, khi đã nếm trải nỗi đau, bế tắc trong tình ái thì khát vọng ái tình trong thơ Xuân Quỳnh vẫn thiết tha, giàu yêu thương. Trong bài Tự hát (1984) tức là gần những năm cuối đời, Xuân Quỳnh viết:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
+ Đoạn thơ cuối cùng, Xuân Quỳnh đã so sánh cuộc đời và biển cả:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Cuộc đời con người tuy dài nhưng không phải vô cùng, như biển lớn bao la nhưng không phải vô tận. Xuân Quỳnh rất nhạy cảm với sự trôi chảy của thời gian, ý thức về thời gian gắn với nỗi âu lo, dù vậy, nhân vật trữ tình trong thơ đã có cách ứng xử tích cực: âu lo nhưng không mấy bế tắc, mà chỉ khao khát nắm lấy hạnh phúc trong bây giờ, sống hết mình, mãnh liệt với tình ái để vượt qua và chiến thắng sự hữu han của thời gian và đời người.
tình ái là một mô tả của cuộc đời và tình yêu chính là cuộc sống. chính cho nên vì thế đoạn thơ cuối cùng mở rộng tứ thơ – tình yêu không phải chỉ là của anh và em mà tình yêu phải hòa trong biển lớn nhà thơ gọi là Biển lớn tình yêu. Khát vọng sống hết mình với tình yêu được Xuân Quỳnh diễn tả một cách giản dị:
Làm sao tan được ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Tan ra để hòa &o biển lớn của tình yêu, biển lớn của hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi với Xuân Quỳnh, cách để sống mãi là sống với tình yêu của mình. Ước muốn ấy của nữ thi sĩ vừa dịu dàng, đôn hậu, vừa nồng nàn thiết tha. Bài thơ khép lại nhưng hai cặp hình tượng “sóng – bờ, em – anh” vẫn đan cài &o nhau, ngời sáng một vẻ đẹp vĩnh hằng của tình yêu.
5. Giá trị nghệ thuật
Hình tượng sóng là một ẩn dụ độc đáo, khiến lời thơ vừa thực, vừa lãng mạn. Thể thơ tự do năm chữ ngắt nhịp linh họat và chủ yếu không ngắt nhịp, tạo âm hưởng thơ dạt dào, vừa gợi âm hưởng của sóng, vừa diễn tả tinh tế khát vọng tình yêu nồng nàn. Kết cấu song hành giữa hình tượng sóng và em tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo của bài thơ.
6. Nội dung tư tưởng
Sóng là một bài thơ tình yêu hay trong chùm thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh: Thuyền và biển, Tự hát, Mùa hoa doi,.. .Bài thơ thể hiện khát vọng tình yêu nồng nàn, tha thiết, sâu lắng, thủy chung, đó là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu rất đáng trân trọng. Tình yêu đó vừa mang tính dân tộc, vừa có ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Trong cảnh ngộ đó, bài thơ sáng tác năm 1967, khi đất nước ta còn chìm trong khói lửa chiến tranh, còn bị chia cắt, có rất nhiều người con trai ra trận trong “những cuộc chia li màu đỏ” để cứu nước. Trong hoàn cảnh lịch sử hào hùng ấy của đất nước những năm chống Mĩ, vẻ đẹp tâm hồn của người con gái tỏa ra từ bài thơ Sóng đã góp phần không nhỏ làm nên tuổi trẻ huyền thoại của Việt Nam trong những năm tháng oanh liệt nhất.
Đất nước thời điểm hiện giờ đã thanh bình, nhưng với bao lo toan, bận bịu của thông thường, những vần thơ tình yêu nồng nàn, thiết tha, chung thủy, lời tự hát tình yêu của bài thơ Sóng sẽ mãi mang lại những cảm xúc dịu ngọt, góp phần làm nên vẻ đẹp nhân văn của cuộc sống muôn quý, ngàn yêu của chúng ta. Chẳng phải là thơ đã tiếp tục sự sống của Xuân Quỳnh , tình yêu của Xuân Quỳnh , cả sau khi ng phụ nữ tài năng và bất hạnh đó đã đột ngột ra đi mãi mãi đó sao. Nhắc đến tình yêu và cuộc đời, có lẽ bạn đọc sẽ còn nhắc mãi tới Xuân Quỳnh .
Nhận xét:
Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ viết về tình yêu rất nhiều và hay, điều làm nên sức sống mãnh liệt của thơ Xuân Quỳnh có lẽ là tính chân thực và niềm đam mê gửi gắm trong những lời thơ giản dị mà vô cùng sâu lắng. “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”, thơ Xuân Quỳnh rất ít triết lí mà thường nghiêng về duy cảm. Nó được viết bằng cảm xúc chân thật của một người mẹ, người vợ với bao lo toan chuyện cơm áo gạo tiền thời chiến tranh, là cảm xúc cụ thể của một ng phụ nữ làm thơ tình yêu khi đã trải qua nhiều ngọt ngào, cay đắng của tình yêu nên những lời thơ ấy giản dị mà vẫn xúc động lòng người. Nhà thơ từng viết:
“Bàn tay em ngón chẳng thon dài
Vệt chai cũ đường gân xanh vẩt vả
Em đánh chắt, chơi thuyền từ thuở nhỏ
Hái rau dền, rau rệu nẩu canh
Lẩy thời gian em viết những dòng thơ
Để thẩy được chúng mình không cách trở.
Bàn tay em, gia tài bé nhỏ,
Em trao anh cùng với cuộc đời em”
Thơ Xuân Quỳnh giản dị nhưng không bao giờ cũ vì nó cũng có triết lí, thứ triết lí của thi ca, thứ triết lí đôn hậu của một người phụ nữ làm thơ. Xuân Quỳnh nói chuyện tình yêu, chuyện cái chết, chuyện được mất một cách rất giản dị mà lại đi &o lòng người.
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp