Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Chiếu cầu hiền – Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11 – VietJack.com. Bài viết tung nghe noi rang nguoi hien xuat hien o doi tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.
- Hướng dẫn cách làm hình nền Liên Quân để đăng lên mạng xã hội
- Đặt 1 câu ghép chỉ nguyên nhân vì sao lão Hạc gửi tiền cho ông Giáo
- Kích Thước Giấy A4, A3, A2, A1, A0 Là bao lăm Pixel, Cm, Inches
- Mơ thấy giết người: Giải mã giấc mơ giết người và đánh con gì?
- Vinfast Lux SA2.0 2022: Giá Xe, Thông Số & Hình Ảnh (ALL-NEW)
I. Tác giả Chiếu cầu hiền
Bạn Đang Xem: Chiếu cầu hiền – Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11 – VietJack.com
a. Tiểu sử
– Ngô Thì Nhậm (1746- 1803), hiệu là Hi Doãn
– Ông từng đỗ Tiến sĩ làm quan cho nhà Lê- Trịnh, sau đi theo phong trào Tây Sơn và có nhiều đóng góp tích cực. Nhiều văn kiện giấy tờ Tây Sơn do ông soạn thảo
– Ông là người nhân ái tài và ý chí lớn
b. Sự nghiệp văn học
– Các tác phẩm chính:
+ về văn: Kim mã hành dư (Lúc làm việc công nhàn rỗi), Hàn các anh hoa (Tinh hoa nơi gác văn), Bang giao hảo thoại (Lời hay trong các bang giao)
+ về thơ: Yên Đài thu vịnh (Vịnh cảnh thu nơi Yên Đài), Cúc hoa bách vịnh (Trăm vần thơ vịnh hoa cúc)
+ ông còn là tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí
– Đặc điểm sáng tác: ông là cây đại bút về văn chính luận
Bài giảng Ngữ văn 11 Chiếu cầu hiền
II. Nội dung tác phẩm Chiếu cầu hiền
Chiếu cầu hiền
Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.
Trước đây thời thế suy vi, Trung châu bắt gặp gỡ gỡ gỡ nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển &o sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.
Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học bát ngát rãi tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?
Kia như, trời còn ám muội, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đương ở buổi đầu của nền đại định, công việc vừa mới mở ra. Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức mà đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh. Nghĩ cho kĩ thì thấy rằng: Một cái cột không thể đỡ nổi 1 căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa. Huống nay trên dải đất văn hiến bát ngát như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?
Chiếu này ban xuống, các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng với thứ dân trăm họ, người nào bác bỏ bỏ ái kiệt học thuật, mưu hay hơn đời, cho phép được dâng sớ tâu bày sự việc. Lời nói nào có thể chọn dùng được, thì đề bạt không kể thứ bậc; chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì lời nói sơ suất vu khoát mà bắt tội. Còn người có nghề hay nghiệp giỏi, có thể cống hiến cho đời, thì cho phép các quan văn, quan võ được tiến cử, nhưng vẫn dẫn &o đợi ra mắt, tuỳ tài lục dụng. Hoặc người nào từ trước đến nay anh tài còn bị trùm kín, chưa được người đời nghe biết, thì cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử, chớ hiềm vì mưu lợi mà phải bán rao.
Này! Trong khoảng trời đất, hiền tài còn ẩn náu, trước đây thì nên như thế. Nay trời trong sáng, đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài có đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh.
Vậy bá cáo gần xa để mọi người đều biết.
III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Chiếu cầu hiền
1. tình cảnh sáng tác tác phẩm Chiếu cầu hiền
– Bài chiếu được viết &o khoảng những năm 1788- 1789 nhằm thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê- Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn
2. bố cục tổng quan
– Phần 1 (từ đầu đến ý trời sinh ra người hiền vậy) :mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử
– Phần 2 (tiếp đến buổi thuở đầu trẫm hay sao?): cách ứng xử của hiền tài khi Tây Sơn ra bắc diệt Trịnh
– Phần 3 (còn lại): đường lối cầu hiền của vua Quang Trung
3. Tóm tắt tác phẩm Chiếu cầu hiền
Tóm tắt Chiếu cầu hiền (mẫu 1)
“Chiếu cầu hiền” được viết khoảng năm 1788 – 1789 nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, các trí thức triều đại Lê -Trịnh ra công tác với triều đại Tây Sơn. Đầu tiên, Ngô Thì Nhậm đã nêu ra mối quan hệ giữa hiền tài với thiên tử – hiền tài là sứ giả của thiên tử. Nhưng thực tế bấy giờ lại ngược lại, họ hoặc là trốn tránh không ra giúp nước hoặc là làm việc không đúng năng lực của mình. Điều đó chẳng khác nào làm trái với ý trời – có tài mà không được đời dùng. Từ đó là những đường lối cầu hiền vô cùng tiến bộ. Con đường cầu hiền theo vua Quang Trung là tiến cử với ba cách: tự mình dâng thư giãi bày công việc, các quan tiến cử, dâng thư tự tiến cử.
Tóm tắt Chiếu cầu hiền (mẫu 2)
Năm 1788, sau khi nhà Lê – Trịnh sụp đổ, Ngô Thì Nhậm đã đi theo nghĩa quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh, lên ngôi hoàng đế và lấy hiệu là Quang Trung. Ngô Thì Nhậm được Quang Trung giao cho viết “Chiếu cầu hiền” để kêu gọi sĩ phu Bắc Hà ra giúp nước cứu đời. Hiền tài cũng giống như ngôi sao sáng trên trời cao. Người hiền sẽ là sứ giả của thiên tử. Nhưng trong cảnh ngộ đất nước còn nhiều khó khăn, có người thì mai danh ẩn tích bỏ phí nhân tài “trốn tránh việc đời”. Có người ra làm quan thì sợ hãi, im lặng như bù nhìn “không dám báo cáo”, hoặc làm việc cầm chừng “đánh mõ, giữ cửa”. Có kẻ “ra biển &o sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời”. Từ đó, vua Quang Trung đưa ra đường lối cầu hiền đúng đắn, kêu gọi người tài ra giúp nước cứu đời.
Xem Thêm : Phạm Thành Long là ai? Tiểu sử doanh nhân – luật sư Thành Long
Tóm tắt Chiếu cầu hiền (mẫu 3)
“Chiếu cầu hiền” được Ngô Thì Nhậm viết thay vua Quang Trung &o khoảng năm 1788 – 1789. Đầu tiên, tác giả đã nêu ra quan điểm hiền tài giống như sứ giả của thiên tử. Nhưng trong hoàn cảnh đất nước khó khăn lúc bấy giờ, các sĩ phu Bắc Hà hoặc là mai danh ẩn tích bỏ phí hào kiệt “trốn tránh việc đời”. Hoặc là ra làm quan thì sợ hãi, im lặng như bù nhìn “không dám thông báo” hoặc làm việc cầm chừng “đánh mõ, giữ cửa”. Thậm chí có kẻ “ra biển &o sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời”. Từ đó vua Quang Trung đưa ra tư tưởng dân chủ tiến bộ, chính sách cầu hiền đúng đắn.
4. Phương thức miêu tả tác phẩm Chiếu cầu hiền
– Tự sự, biểu cảm
5. Thể loại tác phẩm Chiếu cầu hiền
– Tác phẩm Chiếu cầu hiền thuộc thể loại: Chiếu
6. Giá trị nội dung tác phẩm Chiếu cầu hiền
– Bài chiếu là một văn kiện quan trọng bộc lộ chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước
7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Chiếu cầu hiền
– Bài chiếu được viết với nghệ thuật thuyết phục, đặc sắc và diễn tả tình cảm của tác giả với sự nghiệp xây dựng đất nước.
IV. Dàn ý tác tác phẩm Chiếu cầu hiền
1. Mối quan hệ giữa hiền tài với thiên tử
– Bức Ảnh so sánh được sử dụng: hiền tài – ngôi sao sáng đã bày tỏ sự trân trọng, khẳng định, đề cao vị trí của người hiền tài đối với quốc gia, dân tộc
– Giữa thiên tử và người hiền tài có mối quan hệ khăng khít: người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử giống như các sao sáng trên trời quy tụ về sao Bắc Đẩu ⇒ Hình ảnh so sánh lấy ý từ câu nói của Khổng Tử trong Luận ngữ càng tăng thêm tính thuyết phục cho bài viết
– Bài chiếu còn nêu lên quy luật xử thế nữa của những người hiền tài đã là hiền tài thì không được bỏ phí nhân kiệt phải đem ra giúp đời giúp nước: Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy
– Các quy luật mà bài chiếu nêu ra ai ai cũng phải thừa nhận
2. Thực tế cách ứng xử của hiền tài Bắc Hà và thực trạng đất nước
– Các sĩ phu Bắc Hà vì nhiều lí do khác nhau chưa ra giúp đời, giúp nước, nhân tài chưa được trọng dụng, phát huy:
+ bỏ đi mai danh ẩn tích muốn lẩn trốn suốt đời để uổng phí anh tài
+ làm quan với nhà Tây Sơn nhưng sợ hãi, im lặng kiêng dè không dám lên tiếng, làm việc gõ mõ, cầm chừng, canh cửa
+ chán nản thụ động, hủy hoại thân mình ra biển &o sông, oan uổng anh tài, chết đuối trên cạn
– Thực tế cách ứng xử như thế không phù hợp với quy luật đã nêu trên, cũng không phù hợp với thực tế. Hàng loạt các câu hỏi được đưa ra khiến người nghe phải suy ngẫm: Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?
⇒ Người viết đang thầm phê phán kín đáo, thâm úy
– Để thuyết phục tác giả đưa ra thực trạng đất nước lúc bấy giờ khiến kẻ sĩ có lương tâm không thể thờ ơ nghĩa vụ với dân với nước:
+ đất nước đương buổi đầu của thời hưng thịnh, công việc vừa mới mở ra cần người hiền tài
+ đất nước nhiều nhân kiệt lẽ nào lại không có: Huống nay trên dải đất văn hiến mênh mông lớn như thế này……buổi ban sơ của trẫm hay sao?
3. những cách phát huy người tài, tiến của hiền tài và niềm mong mỏi, niềm tin có được hiền tài của vua Quang Trung
– Từ quan lại cho đến thứ dân người nào nhân ái tài, mưu lược hay đều được bộc bạch sự việc, ý kiến
– Tự mình dâng sớ bày tỏ việc nước
– Các quan tiến cử người hiền
– Hiền tài tự tiến cử
⇒ Đường lối hết sức bát ngát mở, cách tiến cử rất dễ làm thái độ nhà vua hết sức thành tâm, độ lượng
4. Nghệ thuật
Xem Thêm : bao lăm lâu bán được 1 tỷ gói mè là gì? – Hoatieu.vn
– cấu tạo mạch lạc, lập luận chặt chẽ, hợp lí
+ mở bài nêu ra tiền đề có tính chất chân lí
+ thân bài soi sáng tiền đề mang chân lí, tính quy luật &o thực trạng kẻ sĩ Bắc Hà từ đó chỉ ra cách ứng xử không phù hợp với quy luật, thực tế đất nước
+ rút ra kết luận
– Ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật, truyền cảm, giàu thuyết phục
V. Một số đề văn bài Chiếu cầu hiền
Đề bài: Phân tích tác phẩm Chiếu Cầu Hiền của Ngô Thì Nhậm để thấy tài nhìn xa trông mênh mông và tấm lòng của vua Quang Trung đối với đất nước.
Bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Chiếu Cầu Hiền của Ngô Thì Nhậm để thấy tài nhìn xa trông mênh mông và tấm lòng của vua Quang Trung đối với đất nước.
Sau khi dẹp xong giặc và loạn lạc ở miền Bắc, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và giao cho Ngô Thì Nhậm soạn Chiếu Cầu Hiền nhằm thu phục người tài ra giúp dân giúp nước. Bài chiều miêu tả tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, đặc biệt cho thấy tầm nhìn xa trông mênh mông rãi của một nhà lãnh đạo kiệt xuất.
Để viết được những tác phẩm chiếu, yêu cầu người viết phải thông tỏ sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ để qua đó tập hợp lại sức lực vì vận mệnh quốc gia. Đối với Ngô Thì Nhậm, ngoài những yêu cầu trên ông còn là một người sắc sảo trong nghệ thuật thuyết phục. Có thể nói bài Chiếu cầu hiền đã mô tả một nhân kiệt xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
khởi đầu tác phẩm, tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử nhằm tạo dấu ấn mạnh đối với các nho sĩ:
“Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.
Đoạn khởi đầu muốn khẳng định người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống “như sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiều. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sang đoạn tiếp theo, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Điều đó làm trăn trở nhà vua vì phí hoài tài năng 1 cách vô ích đó. “Trước đây, thời gấp áp dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể &o sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”. Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của anh tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: “Cũng có người giữ cửa, ra bể &o sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nghị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. chính vì, nhà vua luôn “sớm hấp ủ mong mỏi”.
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì “dân khổ chưa hồi sức” nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm châm bẩm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình”. Đoạn vă chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự an toàn dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là bao la lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Đoạn thứ ba của bài chiếu cho thấy thầm nhìn xa trông bao la của vua Quang Trung là xuất chúng, diễn tả rõ tình ái nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn &o trong triều giúp vua gây dựng đất nước. “Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có hào kiệt học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc”.
Có thể nói ở đây, tính dân chủ đã được hình thành và phát huy cao độ. Điều đó nói lên tính cấp thiết của đất nước trong việc trọng dụn người tài &o nắm giữ các chức vụ khác nhau trong triều đình mới.
Trong lịch sử ít có một nhà vua nào đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng anh tài giúp nước như vua Quang Trung. Cách nhìn xa trông mênh mông đó chứng tỏ nhà vua là người thông đạt quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán thù, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no đủ, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm cách tân nước nhà.
Bài Chiếu cầu hiền là tấm lòng của vua Quang Trung đối với dân với nước, tấm lòng đó là niềm mong muốn được cống hiến vì sự phồn vinh của nước nhà mà vua Quang Trung đã từng nung nấu. Qua bài chiếu này ta có thể thấy, tài nhìn xa trông bát ngát của nhà vua anh minh Quang Trun và ái tình nước nồng nàn của một vị vua kiệt xuất.
Quang Trung xứng đáng đi &o lịch sử như một hero tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.
Đề bài: Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm.
Bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm.
Ngô Thì Nhậm là một người hiền tài, được vua Quang Trung hết lòng trọng dụng. Viết chiếu cầu hiền là một nét văn hóa đặc biệt của phương Đông. Trong buổi đầu dựng nước, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, Ngô Thì Nhậm đã viết Chiếu cầu hiền dưới sự yêu cầu của vua Quang Trung. Tác phẩm vừa biểu hiện chiến lược đứng đắn vừa là một áng văn xuất sắc.
Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền &o khoảng năm 1788 – 1789, bài chiếu được viết nhằm thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ – nhà Lê ra giúp sức cho triều đại mới – nhà Tây Sơn. Tác phẩm có bố cục mạch lạc, liên kết chặt chẽ với nhau: phần 1 nêu lên vai trò, sứ mệnh của người hiền tài đối với vận mệnh đất nước; phần 2 đưa ra những trăn trở của vua Quang Trung nhằm kêu gọi người tài ra giúp nước; phần còn lại đưa ra bề ngoài, con đường để người hiền tài ra giúp đỡ đất nước. Với bố cục mạch lạc, chặt chẽ Ngô Thì Nhậm đã thực hiện thành công mục đích viết chiếu của mình.
Điều đầu tiên tác giả đề cùa đến chính là vai trò rộng lớn của người hiền tài đối với sự hưng thịnh, suy vong của một đất nước. Ông sử dụng hình ảnh so sánh đặc sắc và hết sức chính xác: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao” câu văn đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của người hiền đối với quốc gia dân tộc, đây đồng thời cũng như sự tôn vinh, khen ngợi đối với họ. Không dừng lại ở đó, Ngô Thì Nhậm tiếp tục khẳng định: “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Với cách so sánh đầy sáng tạo, tác giả khẳng định sự trân trọng người hiền tài khi so sánh họ như những vì tinh tú trên trời, họ là kết tinh của sự tinh anh và tài hoa bởi thế phải đem tài năng của mình ra phục vụ đất nước. Với lập luận hết sức chặt chẽ, tác giả đã bước đầu thuyết phục được người hiền tài.
Nhưng để bài chiếu có sức thuyết phục cao hơn nữa nữa, phần tiếp theo của tác phẩm, Ngô Thì Nhậm nêu lên những khó khăn trong hành trình thu phục người hiền tài ra giúp nước. “Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể &o sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”. Nếu như trong buổi suy vi, những nhà Nho thường lánh đời, bỏ chỗ đục tìm về chỗ trong để giữ trọn khí tiết thanh cao của mình là điều dễ hiểu, nhưng nay đã sang một thời đại mới vì sao vẫn mãi “lẩn tránh” câu văn như một lời trách cứ vừa nhẹ nhàng vừa đanh thép với kẻ sĩ lúc bấy giờ. “Nay trẫm ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng”. Câu văn vừa biểu hiện sở nguyện tha thiết, chân thành, “ghé chiếu” để mời người hiền tài ra giúp nước. Nhưng đồng thời biểu hiện sự phê phán nhẹ nhàng mà thâm thúy qua hai thắc mắc tu từ ở phía sau. Đánh động &o suy nghĩ, nhận thức của những kẻ hiền tài vẫn chưa chịu ra giúp đời, giúp triều đại mới.
Buổi đầu dựng nước gặp phải biết bao khó khăn: “kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan” không chỉ có vậy, đời sống người dân không ổn định “dân còn nhọc mệt chưa lại sức” sau những năm dài chinh chiến. chính vì thế, càng nhận thấy rõ hơn sự góp sức của người tài có ý nghĩa quan trọng nhường nào đối với đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Câu văn mô tả thái độ trân thành của vua Quang Trung, ông một lòng muốn mời người hiền ra giúp nước cũng là bởi lo cho đời sống nhân dân, lo cho sự an nguy, độc lập của đất nước. Đó là những lời tâm huyết và chân tình xuất phát từ trái tim yêu nước thương dân mãnh liệt. Tấm lòng đó quả đáng trân trọng và đáng tự hào biết bao.
Đoạn văn tiếp theo cho thấy rõ tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung. Để hợp sức toàn dân, đồng lòng xây dựng triều đại mới ông ban chiếu để mời gọi người hiền ra giúp nước. hiệ tượng vô cùng đa dạng: “cất nhắc không kể thức bậc”, “không vì lời nói sơ suất mà vu khoát, bắt tội”, “được tiến cử” “tự tiến cử”,… cốt sao để người hiền tài có được những điều kiện thuận lợi nhất để họ có thể đem sức mình cống hiến cho sự nghiệp chung của nước nhà.
Với những lời lẽ tâm thành, tha thiết ta có thể thấy tầm nhìn xa trông rộng của Quang Trung trong tiến trình tái tạo và xây dựng một triều đại mới. Triều đại đó nếu chỉ hùng cường về quân sự thôi chưa đủ mà còn phải hùng mạnh về người tài, bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Vua Quang Trung là một người lãnh đạo có trí tuệ, khiêm tốn, tâm thành và một lòng lo lắng cho sự nghiệp dựng nước. Trong toàn bộ bài chiếu ta không hề thấy ông một lần nhắc đến những sĩ phu Bắc Hà không cộng tác với nhà Tây Sơn. Điều đó cho thấy lối ứng xử khéo léo, khiêm nhường và chỉ duy nhất hướng đến mục đích kêu gọi sự hợp tác của người hiền tài.
Tác phẩm sử dụng nhiều điển tích, điển cố Hán học giúp cho việc biểu hiện tư tưởng quan điểm trở nên súc tích, rõ ràng. Bên cạnh đó, lớp ngôn từ ông sử dụng chủ yếu nói về nhân dân, đất nước, triều đại, … tạo nên lớp ngôn từ mang không khí trang nghiêm, nhấn mạnh &o sự thiêng liêng của sự nghiệp dựng nước đang mong mỏi sự giúp sức của người hiền tài. Nghệ thuật lập luận tài tình, chặt chẽ, logic, hợp lí tạo sức thuyết phục cao đối với người đọc.
Chiếu cầu hiền là một văn kiện quan trọng thể hiện tư tưởng sáng suốt của triều Tây Sơn khi kêu gọi người hiền tài ra giúp sức trong buổi đầu của triều đại mới. Đồng thời cũng thấy được sự khiêm nhường, tấm lòng thành tâm và tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung nhận thấy vai trò quan trọng của người tài đối với quá trình xây dựng đất nước.
tìm hiểu thêm các bài viết về Tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 11 hay khác:
Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp