bản tính tiên tiến, cách mệnh của kẻ thống trị công nhân trong Cách

Chúng tôi rất vui được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa bản tính tiên tiến, cách mệnh của kẻ thống trị công nhân trong Cách. Bài viết vi sao cach mang cong nghiep lam cho giai cap vo san ngay tập trung giải thích ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong tối ưu hóa nội dung web và chiến dịch tiếp thị. Chúng tôi cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa, kèm theo chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút người dùng.

cách mệnh công nghiệp lần thứ tư góp phần nâng cao bản lĩnh thống nhất, đoàn kết của ách thống trị công nhân – Ảnh: vnanet.vn

Bạn Đang Xem: bản tính tiên tiến, cách mệnh của kẻ thống trị công nhân trong Cách

Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, GCCN có sứ mệnh lịch sử toàn thế giới là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng GCCN, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi ­sự áp bức, bóc lột, nghèo khổ, lạc hậu, xây dựng thành công CNXH và chủ nghĩa cộng sản. GCCN là sản phẩm, là chủ thể của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, gắn với phương thức lao động công nghiệp có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng sản xuất bậc nhất của xã hội; trong xã hội tư bản chủ nghĩa, họ không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất bắt buộc phải bán sức lao động và bị ách thống trị tư sản bóc lột giá trị thặng dư. GCCN chịu sự ảnh hưởng ảnh hưởng ảnh hưởng ảnh hưởng ảnh hưởng ảnh hưởng ảnh hưởng của mọi yếu tố, nhất là những biến đổi lớn lao về công cụ lao động làm thay đổi quá trình lao động của họ do sự ảnh hưởng ảnh hưởng của các cuộc CMCN trong lịch sử và bây giờ là cuộc CMCN lần thứ tư.

CMCN lần thứ tư được mở màn từ đầu thế kỷ XXI, trên nền tảng của CMCN lần thứ ba, với đặc trưng “là sự cải tiến công nghệ 1 cách nhanh chóng thông qua việc tăng cường sử dụng truyền thông di động và kết nối internet (“internet vạn vật”), dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ robot, phương tiện tự điều khiển, công nghệ in 3 chiều, nano và công nghệ sinh học, công nghệ điện toán”(1). Trên cơ sở ảnh hưởng bởi các cuộc CMCN trước đây, CMCN lần thứ tư có ảnh hưởng mạnh mẽ đến GCCN 1 cách toàn diện, làm cho thống trị này có những bộc lộ mới về số lượng, cơ cấu, chất lượng; theo đó, góp phần củng cố bản tính tiên tiến, cách mệnh, những yếu tố cốt lõi quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN.

1. cách mệnh công nghiệp lần thứ tư củng cố bản chất tiên tiến của kẻ thống trị công nhân

bản tính tiên tiến của GCCN trước hết do điều kiện kinh tế quy định. Là thống trị được sinh ra từ nền sản xuất đại công nghiệp, là sản phẩm và là chủ thể của nền sản xuất đại công nghiệp với sự phân công lao động cao và tính chất xã hội hóa của nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển. Nền sản xuất công nghiệp ấy, cùng những yếu tố cấu thành như máy móc, cách thức tổ chức quản lý sản xuất, trình độ cao của lao động và hợp tác lao động công nghiệp… được C.Mác coi là “những nhà cách mệnh” khiến xã hội hiện nay không thể duy trì trạng thái cũ(2). Tính chất xã hội hóa của nền sản xuất công nghiệp là yếu tố sâu xa, khẳng định sứ mệnh lịch sử của GCCN đối với quá trình phát triển văn minh nhân loại. Theo đó, GCCN có trình độ sản xuất hiện đại nhất, tiên tiến nhất, được trang bị và đổi mới, phát triển không ngừng về tri thức và kỹ năng.

Cũng như các cuộc cách mệnh trong lịch sử, CMCN lần thứ tư tiếp tục củng cố những điều kiện cho tính chất tiên tiến của GCCN, cụ thể:

Thứ nhất, CMCN lần thứ tư góp phần gia tăng số lượng công nhân trên thế giới

Quy mô và sự phát triển liên tục của GCCN cũng là một minh chứng khẳng định vị trí ngày càng bền lâu mà GCCN nắm giữ trong sự phát triển năng động của hệ thống tư bản. Trên thực tế, số lượng người lao động, số lượng công nhân (lao động bằng phương thức công nghiệp) đều gia tăng qua các cuộc CMCN. Điều này được chứng minh thông qua các báo cáo số lượng lao động của các tổ chức quốc tế lớn (bank thế giới – WB, Tổ chức Lao động quốc tế ILO) hoặc các nghiên cứu khoa học uy tín. Dù các số liệu có thể khác nhau đôi chút, nhưng bức họa bối cảnh là sự tăng lên mạnh mẽ của lao động nói chung trong đó có công nhân(3). Theo ILO, thế giới hiện giờ có khoảng 3,3 tỷ lao động, trong đó, công nhân là lực lượng lao động được trả công và lao động theo phương thức công nghiệp có khoảng 2 tỷ (chiếm trên 60% số lao động toàn cầu)(4). Thực tế, lịch sử phát triển của các cuộc CMCN cũng cho thấy, việc ứng dụng công nghệ ngày càng tạo ra số lượng việc làm mới nhiều hơn số việc làm bị mất đi(5): Một kết quả nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, trong giai đoạn năm 1850- 2015, việc ứng dụng máy móc và công nghệ đã làm mất đi 3.508 việc làm, nhưng lại tạo ra 19.263 việc làm mới(6) (ví dụ, từ năm 1980 đến năm 2015, máy tính member (PC) đã làm mất đi hơn 3 triệu việc làm ở Mỹ, nhưng nó cũng tạo thêm 19,2 triệu việc làm mới). Theo giải trình giải trình Tương lai nghề nghiệp 2018 (The Future of Jobs 2018) của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), khoảng 75 triệu việc làm sẽ bị thay thế nhưng sẽ có khoảng 133 triệu việc làm được tạo ra &o năm 2022 ở các nền kinh tế phát triển và mới nổi(7).

Số việc làm mới được tạo ra đồng nghĩa với việc số lượng lao động, số lượng công nhân tăng dưới sự ảnh hưởng của CMCN, và sẽ tập trung tăng ở lĩnh vực dịch vụ và công nghệ cao. Nhìn chung, CMCN lần thứ tư làm thay đổi loại hình việc làm chứ không làm giảm số lượng việc làm; thế cho nên, không làm giảm số lượng người lao động, trong đó có công nhân.

Thực tế, xu hướng ngày càng phát triển về số lượng GCCN do sự phát triển của các cuộc CMCN trong đó có CMCN lần thứ tư đã phủ nhận luận điểm cho rằng, công nghệ ngày càng thay thế sức lao động của con người, nên số lượng công nhân sẽ giảm, từ đó sẽ dẫn đến phủ nhận sứ mệnh lịch sử của GCCN. Chẳng hạn Alvin Toffler trong “Làn sóng thứ ba” cho rằng: “bây giờ số phần trăm công nhân làm việc ở các ngành sản xuất trong các quốc gia tiên tiến đã và đang giảm trong 20 năm qua… do sự co lại về sản xuất trong thế giới công nghiệp”(8). Hoặc như quan điểm của Lưu Bảo Quốc trong “Từ phần tử trí thức của kẻ thống trị đến thống trị của phần tử trí thức” đã nhận định: Kinh tế tri thức làm “không có người ở nhà máy”, dùng máy tính và người máy để điều khiển lao động…, nên dẫn đến sự thu hẹp của ách thống trị vô sản công nghiệp, từ đó “ách thống trị công nhân trong thời đại kinh tế công nghiệp cũng mất đi vai trò quan trọng trong xã hội”(9).

Xem Thêm  Trademark Là Gì? Những Điểm Khác Biệt Giữa Brand Và Trademark

Sự phát triển về số lượng của GCCN là một tất yếu khách quan, tạo ra một lực lượng cao lớn sẽ thực hiện 1 cuộc cách mệnh khác tất cả các cuộc cách mệnh trong lịch sử: “Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu cầu lợi ích cho khối đại đa số”(10).

Thứ hai, CMCN lần thứ tư góp phần nâng cao trình độ của người công nhân

Những tiến bộ của khoa học và công nghệ bởi CMCN lần thứ tư đồng nghĩa với việc lao động theo phương thức công nghiệp có phạm vi hoạt động phức tạp hơn. Các ngành công nghiệp sáng tạo sẽ ngày càng phát triển, đòi hỏi những người công nhân tham gia quá trình đó phải có trình độ lơn hơn những kỹ năng căn bản.

Với việc ứng dụng công nghệ ngày càng mạnh mẽ &o các hoạt động sinh hoạt kinh tế, dẫn đến một phòng ban không nhỏ lao động giản đơn bị công nghệ thay thế, đòi hỏi công nhân phải tiếp tục tẩm bổ kỹ năng, trình độ để có thể tiếp tục được tham gia &o quá trình sản xuất. Đồng thời, với những công việc mới được tạo ra bởi cuộc CMCN lần thứ tư, công nhân cũng cần được được đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng để thích nghi với những công nghệ mới. Nâng cao năng lực của công nhân trở thành xu hướng trong CMCN lần thứ tư. Hệ thống các kỹ năng được chú trọng, như: kỹ năng cứng (trước hết là các kỹ năng số nhằm đáp ứng tiêu chuẩn năng lực công nghệ thông tin cao hơn trong tương lai để thích ứng với những công nghệ mới như in 3 chiều, robot, trí tuệ nhân tạo, Internet kết nối vạn vật (IoT, S.M.A.C) và kỹ năng mềm (kỹ năng học tập suốt đời, tư duy phân tích và đổi mới, chiến lược học tập và học tập tích cực, sáng tạo, tính độc đáo và sáng kiến, thiết kế và lập trình công nghệ, tư duy phân tích và phản biện, bản lĩnh giải quyết vấn đề phức tạp, lãnh đạo và ảnh hưởng xã hội, trí tuệ cảm xúc, lý luận, giải quyết vấn đề và ý tưởng, phân tích và đánh giá mang tính hệ thống(11). Diễn đàn kinh tế thế giới cũng dự báo rằng, đến năm 2022, sẽ có khoảng 54% lao động được đào tạo lại kỹ năng và nâng cao kỹ năng để thích ứng với CMCN lần thứ tư(12).

Từ những xu hướng trên, phòng ban công nhân có trình độ cao ngày càng tăng: công nhân “cổ trắng” (white – collar worker), công nhân “cổ &ng” (gold – collar worker)(13) – những lao động gián tiếp; công nhân trí thức (Knowledge worker)(14), lao động với năng suất lao động cao, như: các chuyên gia công nghệ (các chuyên gia lập trình và thiết kế web, kỹ sư, nhà thiết kế…). hiện giờ, trên thế giới có hơn 1 tỷ lao động trí thức(15).

Như vậy, nội bộ GCCN có sự thay đổi giai tầng dẫn đến việc xuất hiện các quan điểm có ảnh hưởng đến GCCN như “Thuyết tiêu vong”, “Thuyết tan rã”, “Thuyết giai tầng trung gian”… gây hoài nghi đối với lý luận kẻ thống trị của C.Mác và Ph.Ănghen(16).

Theo đó, một số học giả cho rằng: GCCN trong hàm ý của các nhà kinh điển mác xít chủ yếu là lao động thuộc hạ và đã bị “ách thống trị trung lưu mới” hay “thống trị mới” thay thế, từ đó, GCCN không còn sứ mệnh lịch sử nữa. Các nhà tư tưởng như Andre Gorz, Luxembourg Hoffman đã tuyên bố rằng, GCCN truyền thống đã không tồn tại, nên bây chừ phải tìm kiếm lại chủ thể, xem xét lại “ai sẽ là người đảm nhận giải phóng xã hội”(17). Tác giả Lưu Quốc Bảo cho rằng: trong nền kinh tế trí thức, phần tử trí thức nắm vững công cụ sản xuất là máy tính (điều khiển nó, sắp xếp, ứng dụng những ký hiệu tin tức, liên quan gián tiếp lên đối tượng lao động, gián tiếp tham gia sản xuất vật chất, do đó phần tử trí thức là đại biểu của lực lượng sản xuất tiên tiến, là người lao động chủ yếu của xã hội…(18).

Những quan điểm trên thực ra đã bỏ dở sự biện chứng của C.Mác, Ph.Ănghen trong quá trình nhận thức về GCCN. Các nhà kinh điển mác xít đã khẳng định: GCCN không phải chỉ là những người lao động bộ hạ, phòng ban lao động trực tiếp, mà còn bao gồm lao động trí óc, lao động gián tiếp, là “tất cả những người tham gia bằng cách này hay cách khác &o việc sản xuất ra hàng hoá…”(19).

Xem Thêm : Theo em, trò chơi dân gian ngày nay có còn quan trọng đối với trẻ

Hơn nữa, những “phần tử trí thức” được tác giả Lưu Quốc Bảo đề cùa tới không phải là bộ phận giai tầng nào khác, mà về bản tính chính là bộ phận thuộc về GCCN – công nhân trí thức, vì họ nắm vững công cụ sản xuất là máy tính: điều khiển nó, sắp xếp, ứng dụng những ký hiệu tin tức, ảnh hưởng gián tiếp lên đối tượng lao động, gián tiếp tham gia sản xuất vật chất… Cuộc CMCN lần thứ tư tiếp tục sản sinh ra những công nhân trí thức, đồng thời cũng là những người làm chủ công nghệ mới thông qua việc sáng chế, điều khiển nó, nhằm phục vụ quá trình sản xuất rất đa dạng, mới mẻ và các hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực công nghiệp và hoạt động theo lối công nghiệp trong xã hội mới. Điểm chung ở họ – những người công nhân, dù là công nhân lao động chân tay hay lao động trí óc, lao động trực tiếp hay gián tiếp thì đều tham gia &o quá trình sản xuất hàng hóa (hàng hóa vật phẩm và hàng hóa dịch vụ, hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình), tham gia chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng lao động toàn cầu ngày càng bùng nổ mẽ. Những công nhân ấy đều là biểu lộ của bộ phận thuộc GCCN mang tính toàn thể. Trong sự phân tầng ấy, công nhân trí thức đang là lực lượng chủ đạo của GCCN, giống như C.Mác đã coi bộ phận công nhân hiện đại gắn với nền đại công nghiệp ở thế kỷ XVIII, XIX là hạt nhân, nòng cốt của GCCN thời kỳ đó.

Như vậy, CMCN lần thứ tư đang góp phần phát triển GCCN cả về số lượng và chất lượng, nhấn mạnh thực chất tiên tiến của lực lượng xã hội này, trước hết là xét trên phương diện kinh tế – kỹ thuật. Thực tiễn này cũng đã góp phần phản bác bỏ những luận điệu phủ nhận sự thật GCCN đang phát triển chóng mặt mẽ, phủ nhận vai trò và sứ mệnh lịch sử của GCCN đã và đang được các điều kiện khách quan quy định 1 cách tất yếu.

Xem Thêm  các cách chế biến và dự trữ thức ăn. – 123docz.net

2. cách mệnh công nghiệp lần thứ tư góp phần nâng cao bản lĩnh thống nhất, đoàn kết của ách thống trị công nhân

Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã khẳng định: “sự phát triển của công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn”(20). Sự phát triển của các cuộc CMCN, trong đó có CMCN lần thứ tư đã và đang minh chứng cho tính đúng đắn của luận điểm này.

Thứ nhất, tính thống nhất trước hết được dựa trên cơ sở của sự liên kết ngày càng mạnh mẽ trong quá trình lao động. Thực vậy, khi lao động theo phương thức công nghiệp với đặc trưng là tính chất xã hội hoá ngày càng phát triển thì sự phân công lao động cũng ngày càng sâu sắc, từ đó càng tăng cường sự liên kết trong quy trình lao động: giữa bộ phận này với bộ phận khác, giữa tổ chức này với tổ chức khác, giữa quốc gia này với quốc gia khác. Điều này đã được thể hiện rất rõ qua các cuộc CMCN trước đây. Trên cơ sở những thành tựu trước đó, việc hợp tác kinh tế càng được phát triển chóng mặt mẽ với sự hình thành và phát triển của các tập đoàn xuyên quốc gia, làm thay đổi thực chất của phân công lao động quốc tế từ chiều dọc sang chiều ngang: lao động của các quốc gia có thể tham gia &o các công đoạn sản xuất một loại sản phẩm cụ thể của bất cứ tập đoàn kinh tế nào, tức là tham gia &o chuỗi giá trị với một hoạt động cụ thể. Từ đó, việc sản xuất và đàm đạo theo các chuỗi giá trị toàn cầu (Global Value Chain – GVCs) đã trở thành phổ biến trong liên kết quốc tế, cùng với đó là các bề ngoài liên kết phong phú khác như mạng sản xuất, xuất khẩu lao động tại chỗ, làm việc theo nhóm chuyên gia…

Trên nền tảng đó, CMCN lần thứ tư càng phát huy, kết nối toàn cầu trong sản xuất và dịch vụ. Báo cáo Phát triển chuỗi giá trị toàn cầu năm 2019 của WTO và WEF cho rằng: Ở lĩnh vực nào mà sự ứng dụng công nghệ và trí thức càng cao thì càng phát triển phức tạp chuỗi giá trị toàn cầu(21). Theo đó, chuỗi cung ứng toàn cầu hiện giờ chuyển thành chuỗi cung ứng 4.0, với việc tổ chức lại các chuỗi cung ứng từ việc thiết kế, lập kế hoạch, sản xuất, phân phối, tiêu thụ, vận chuyển… bằng sự việc sử dụng thành tựu về công nghệ của 4.0 (IoT, big data, in 3 chiều, robot, cảm biến thông minh, IA, điện toán đám mây…); từ đó, cũng tác động trực tiếp đến phân công và liên kết GCCN toàn cầu.

Thứ hai, tính thống nhất từ một số tương tác bị động của CMCN lần thứ tư. Một trong những liên quan bị động đó là sự bất đồng đẳng xã hội. Đó là khoảng cách thu nhập trong công nhân và bất đồng đẳng về giới ngày càng gia tăng trong cuộc cách mạng này. Trong cuốn “The Fourth Industrial Revolution” (năm 2016), tác giả Klaus Schwab – Chủ tịch điều hành Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) nhận định: “Với sự phát triển của CMCN lần thứ tư, nhiều ngành nghề mới xuất hiện…, có thể làm phát sinh một thị trường việc làm ngày càng tách biệt với các phân đoạn tay nghề thấp/lương thấp và tay nghề cao/lương cao…, sẽ dẫn đến sự gia tăng bất đồng đẳng và bít tất tay xã hội, trừ khi chúng ta chuẩn bị cho những thay đổi này từ ngày hấp ủ nay”(22). Hơn nữa, để thích nghi với những thay đổi của công nghệ, công nhân luôn phải nỗ lực về sức lực, thời gian, không có sự cân bằng giữa lao động và các hoạt động tái tạo sức lao động, có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực về tâm lý (hiện tượng “karoshi” ở Nhật Bản).

Như vậy, liên kết ngày càng mạnh mẽ từ tính xã hội hoá ngày càng cao trong lực lượng sản xuất, cùng với những bất ổn xã hội và sự bóc lột từ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo nên bởi CMCN như những điều kiện khách quan tiếp tục quy định và củng cố tính thống nhất, tính chiến đấu của GCCN trong bối cảnh mới. Cũng vì lẽ đó, bây giờ chúng ta đang chứng kiến những biện pháp hành động mạnh mẽ có tính chất chiến đấu của công nhân, lao động ở một số nước tư bản nhằm chống lại sự bất bình đẳng xã hội (Cuộc “đình công nữ quyền” của 5 triệu công nhân ở Tây Ban Nha năm 2018; biểu tình của công nhân ở Pháp, Anh, Đức đòi quyền bình đẳng và an sinh xã hội…) cho thấy các phương thức tổ chức và đấu tranh truyền thống của kẻ thống trị công nhân sẽ phát triển trở lại, ở những hiệ tượng mới và cấp độ cao hơn(23). Mặc dù đây chưa phải là bộc lộ của tính thống nhất chất lượng cao – khi kẻ thống trị nhận thức được về lợi ích cùng chung ý thức hệ, “ý thức về điều kiện giải phóng” bởi vai trò của các tổ chức cách mạng chưa thực sự mạnh mẽ để tập hợp công nhân, nhưng đây cũng là những dấu hiệu của “một cuộc đấu tranh phía trước”.

Tính thống nhất (về lợi ích kinh tế và chính trị) là nền tảng cho tinh thần đoàn kết của GCCN ở nhiều cấp độ. bởi thế, những ảnh hưởng của CMCN lần thứ tư một lần nữa khẳng định luận điểm của C.Mác: “Sự tiến bộ của công nghiệp mà ách thống trị tư sản là người đại diện mặc nhiên của nó và không đủ sức chống lại nó đem sự đoàn kết cách mạng của công nhân do liên hợp lại mà có, thay cho sự chia rẽ của công nhân do cạnh tranh giữa họ gây nên”(24). Những điều kiện khách quan từ cuộc cách mạng đó cùng với những nỗ lực của các đảng cộng sản; phong trào công nhân; phong trào đấu tranh vì dân chủ, tiến bộ, hoà bình; các mục tiêu và hành động của quốc tế phát triển vì con người, vì mục tiêu phát triển bền vững và kiên cố và kiên cố, thống nhất với mục tiêu đấu tranh của ách thống trị công nhân… đã, đang và sẽ là những cộng lực thống nhất, tạo nên sức mạnh đoàn kết tổng hợp. Điều này đã góp phần phủ nhận luận điệu cho rằng “những người vô sản trên thế giới ngày càng bị phân tán”(25) nhằm phủ định sức mạnh thống nhất, đoàn kết của GCCN.

Ở các nước phát triển theo con đường XHCN, GCCN “là thống trị lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản…; ách thống trị đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; ách thống trị tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh GCCN với kẻ thống trị nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”(26); “Công nhân sản xuất là lực lượng chủ thể phát huy tác dụng duy trì, chống đỡ trong GCCN, là lực lượng trung kiên sáng tạo ra của cải của xã hội, là lực lượng cốt cán sáng tạo ra động cơ phát triển, là lực lượng hữu sinh thực thi chiến lược xây dựng cường quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới”(27). CMCN lần thứ tư là một điều kiện khách quan, mang lại những thuận lợi cho quá trình phát triển GCCN về lượng và chất, góp phần tăng thêm sức mạnh cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN trong bối cảnh mới.

Xem Thêm  Tác dụng của mít mang đến cho cơ thể – Sở Y tế Nam Định

Nhìn 1 cách tổng thể, sự ảnh hưởng của CMCN lần thứ tư đến GCCN như một bức đàm luận chứng ở nhiều tầng nấc giữa các yếu tố tham gia quá trình sản xuất, nổi bật là giữa người lao động và công cụ lao động. CMCN lần thứ tư là một yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến thực chất vốn luôn “động” của công cụ lao động hiện đại, làm biến đổi chủ thể lao động một cách biện chứng dưới nhiều khía cạnh. Đó là xu hướng vừa tăng lên về số lượng ở những ngành nghề, công việc mới, vừa giảm về số lượng công nhân ở những ngành, công việc bị máy móc thay thế, nhưng xu hướng tăng lên là chủ đạo và tăng về lao động trí óc, công nhân tri thức. Xu hướng này tiếp tục chứng minh cho một logic lịch sử: Logic của các cuộc CMCN là một quá trình liên tục giải phóng con người thoát khỏi “nỗi cực nhọc cổ truyền của lao động” đã được chứng minh rất rõ qua ba cuộc CMCN trước đó. Sự biện chứng còn thể hiện ở chỗ, CMCN lần thứ tư vừa ảnh hưởng tính liên kết, tập trung, vừa tạo ra sự phân hoá các tầng lớp trong kẻ thống trị và xu hướng tập trung là chủ đạo, sự phân hóa chỉ là mô tả tạm thời và càng làm tăng thêm tính thống nhất.

chính bới, thực tiễn luôn đòi hỏi sự nhìn nhận biện chứng về GCCN, thấy được những biến đổi đều xoay quanh trục thực chất tiến bộ, cách mạng đã được định hình. Từ đó cũng thấy rằng, những quan điểm phủ nhận vai trò, sứ mệnh của GCCN trong bối cảnh phát triển của công nghệ mới chỉ là các chiếc nhìn bề nổi, bề ngoài, hiện tượng, đòi hỏi mỗi quốc gia, tổ chức có nhận thức và chính sách phù hợp với bản chất và xu thế khách quan. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu về những thúc đẩy của CMCN lần thứ tư đến GCCN không chỉ góp phần bảo vệ quan điểm của lý luận Mác – Lênin, chống lại những luận điệu sai trái, mà còn là cơ sở lý luận vận dụng &o phát triển GCCN, trong đó, có GCCN Việt Nam trong bối cảnh mới. Theo đó, để xây dựng GCCN Việt Nam hiện đại, lớn mạnh, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã một lần nữa đặt ra yêu cầu “nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(28), góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2021- 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

__________________

(1) Cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam: Hàm ý đối với thị trường lao động, https://www.ilo.org.

(2) Xem Nguyễn bình an: Thực hiện nội dung sứ mệnh lịch sử của thống trị công nhân trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, https://www.tapchicongsan.org.vn.

(3) Xem Nguyễn bình an: Những nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện giờ, https://www.tapchicongsan.org.vn.

(4) Xem ILO: World Employment and Social Outlook Trends 2020, executive summart, p.3.

(5), (6) Xem McKinsey Global Institute: Jobs lost, jobs gained: Workforce transition in a time of automation, p.4, p.5.

(7) Xem World Economic Forum: The Future of Jobs 2018, p.8.

Xem Thêm : Vì sao cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở … – Olm

(8) Alvin Toffler: Làn sóng thứ ba, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002, tr.159.

(9),(18) Nguyễn Quốc Phẩm: Phê phán sự phủ nhận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1-2008, tr. 49,49.

(10), (20), (24) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.611, 607, 613.

(11) World Economic Forum: The Future of Jobs Report 2018, p.12.

(12) World Economic Forum: Globalization 4.0 Shaping a New Global Architecture in the Age of the Fourth Industrial Revolution.

(13) JÓZSEFHAJDÚ: Colours of the collar in the labour market, page.264, http://acta.bibl.u-szeged.hu.

(14) Anna Bagieska: Modeling knowlede workers cometences, p.55.

(15) https://www.forbes.com.

(16), (17), (27) Xem Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Các học giả Trung Quốc bàn về giai cấp công nhân Trung Quốc thời đại mới, Hà Nội, 2020, tr.26, 28, 352.

(19) C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, t.26, P.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.196.

(21) Xem WTO: Global value chain development Report 2019, p.1.

(22) Klaus Schwab: The Fourth Industrial Revolution.

(23) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Một số nghiên cứu về giai cấp công nhân trên thế giới hiện giờ, Hà Nội, tr. 28

(25) C.Wright Mills: The Power Elite.

(26) ĐCSVN: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa X Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

(28) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu cả nước lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.166.

TS NGUYỄN THỊ HOA

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

Nguồn: https://kengencyclopedia.org
Danh mục: Hỏi Đáp

Recommended For You

About the Author: badmin

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *